Ký-kết hòa-ước năm Nhâm-Tuất ngày 5-6-1862, sứ-thần Việt-nam là
Phan-Thanh-Giản và Lâm-Duy-Hiệp nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông :
Biên-hòa, Gia-định, Định-tường.
Ngày 4-7-1863, sứ-bộ Việt-nam xuống tàu L’Européen sang Pháp xin
chuộc ba tỉnh ấy : ngày 5-11-1863, sứ-bộ Pháp-Hoàng Napoléon III tiếp
rước trọng thể, hẹn rằng sẽ trả lời cho Triều-đình Huế sau khi đình nghị về
việc đó.
Sau đó, Pháp-quốc không ưng-thuận cho chuộc ba tỉnh miền Đông, nên
Thiếu-tướng De Lagrandière, ngày 20-6-1867, đoạt thành Vĩnh-long, ngày
22-6 chiếm An-giang, ngày 24-6 chiếm Hà-tiên, và ngày 25-6, De
Lagrandière bố-cáo trọn xứ Nam-kỳ từ đây thuộc về Pháp-quốc.
Do hòa-ước năm Giáp-Tuất, ký kết ngày 15-3-1874, Triều-đình Huế
nhìn nhận sáu tỉnh Nam-kỳ là thuộc địa nước Pháp.
CHẾ ĐỘ CAI TRỊ TẠM THỜI
Sau khi quân-đội Pháp chiếm lấy 3 tỉnh miền Đông : Gia-định, Biên-
hòa, Định-tường, mấy năm đầu, các quan Nam-Triều bỏ đi hết, làng xã thì
không hương-chức, sổ bộ đều lạc mất. Có ít trò nhà dòng biết tiếng La-tinh
theo làm thông-ngôn cho quan binh mà thôi. Lần lần, dân-sự mới qui tụ lại,
hương thôn mới tái lập như xưa.
Đời Đô-đốc Charner, lập tại Gia-định và Mỹ-tho một số đồn Pháp để
cai-trị nhân-dân, có một đội binh yểm-trợ.
Nhiều sĩ quan được lãnh trách-nhiệm cai-trị, gọi là « Quản-đốc bổn-
quốc sự-vụ » (Directeur des Affaires Indigènes) thay thế cho tri-huyện, tri-
phủ người Việt.
Nhiệm-vụ của họ là xử kiện, tiễu-trừ trộm cướp, khảo-cứu phong-tục
và tổ-chức chánh-trị trong xứ. Mặc dầu họ có chức-chưởng hành-chánh,