Cái giếng
Có ai đó đánh thức tôi, tôi cảm thấy cái chạm khẽ khàng và
thận trọng. Khuôn mặt cúi xuống tôi màu đen, tôi nhìn thấy
bên trên nó chiếc khăn xếp trắng, trắng đến nỗi gần như phát
sáng, như thể được láng lưu huỳnh, vẫn còn là đêm, nhưng
xung quanh đã nhộn nhịp. Các bà các cô đang dỡ lều, đám trai
tráng tiếp thêm củi vào đống lửa. Có sự hối hả trong cái lộn xộn
này, một cuộc chạy đua với thời gian: phải làm được càng nhiều
việc càng tốt trước khi mặt trời xuất hiện và bắt đầu nóng nực.
Vì thế, phải cuốn lều trại vừa ngủ đêm qua và lên đường. Những
người này không cảm thấy bất cứ mối liên hệ nào với nơi chốn
mà họ đang ở. Họ sẽ đi khỏi đây ngay, không để lại dấu vết.
Trong các bài ca họ hát hằng đêm, một điệp khúc sẽ luôn lặp lại:
“Tổ quốc của tối ư! Tổ quốc tôi là nơi có mưa rơi”.
Nhưng còn lâu mới đến tối. Trước hết, phải chuẩn bị lên
đường. Bởi thế việc đầu tiên là cho lạc đà uống nước. Việc này
mất rất nhiều thời gian, vì lạc đà có thể uống những lượng nước
khổng lồ để dự trữ, điều mà con người hay bất cứ sinh vật nào
khác đều không thể làm được. Sau đó các chàng trai vắt sữa
chúng, đổ đầy các bầu da bẹt thứ sữa hơi chua và đắng. Rồi đám
cừu và dê uống nước ở giếng. Chúng khoảng chừng hai trăm
con. Phụ nữ trông nom đám gia súc này. Con người uống nước
cuối cùng, đầu tiên là đàn ông, rồi mới đến phụ nữ và trẻ em.
Bây giờ ở phía chân trời xuất hiện làn ánh sáng đầu tiên - đó
là sự báo hiệu ngày mới và lời gọi cầu kinh sáng. Đàn ông cầu
nguyện, trước hết họ vóc nước rửa mặt, việc này đòi hỏi sự tập
trung cũng như khi cầu nguyện: không một giọt nước nào, như
từng lời của Chúa, có thể bị phí hoài.