thực tế đã bị phân chia, nhưng cả hai bên đều coi đây là tình
trạng tạm thời. Habyarimana hy vọng mình sẽ lớn mạnh theo
thời gian, đánh đuổi được quân du kích, còn quân du kích thì
mong người Pháp sẽ rút lui, khi đó họ sẽ làm sập cả chế độ lẫn
toàn bộ thị tộc Akazu ngay ngày hôm sau.
Không có gì tệ hại hơn là tình trạng không ra chiến tranh,
không ra hòa bình này. Một bên lên đường chiến đấu với hy
vọng sẽ được nếm mùi trái ngọt chiến thắng, song giấc mơ này
không thành: phải ngừng cuộc tiến công. Tâm trạng của những
người bị đánh chiếm còn tồi tệ hơn: mặc dù sống sót, nhưng họ
đã nhìn thấy bóng ma thất bại, họ cảm thấy sự cáo chung quyền
lực của mình là điều có thể. Họ muốn tự cứu mình bằng mọi giá.
Ba năm rưỡi trôi qua từ cuộc tiến công vào tháng Mười năm
1990 đến cuộc thảm sát tháng Tư năm 1994. Trong chính phủ
Rwanda, các tranh cãi gay gắt nảy sinh giữa những người ủng
hộ thỏa hiệp và việc thành lập chính phủ liên minh dân tộc
(người của Habyarimana cùng quân du kích) và phe thị tộc
Akazu cuồng tín, chuyên quyền do Agathe cùng các anh trai chỉ
đạo. Bản thân Habyarimana thì ngập ngừng, do dự, không biết
phải làm gì, càng lúc càng mất ảnh hưởng đối với các sự kiện.
Nhánh sô vanh của thị tộc Akazu nhanh chóng và cương quyết
chiếm ưu thế. Thị tộc Akazu có các nhà tư tưởng của mình, đó là
các trí thức, học giả, giáo sư ngành lịch sử và triết học của đại
học Rwanda ở Butare - Ferdinand Nahimana, Casimir
Bizimungu, Leon Mugesira và vài người khác. Chính họ đã phát
biểu tư tưởng hợp pháp hóa tội diệt chủng như là lối thoát duy
nhất, cách thức duy nhất để tồn tại. Học thuyết của Nahimana
và các đồng nghiệp cho rằng Tutsi đơn giản là một chủng tộc xa
lạ. Đó là những người Nilotic đến Rwanda từ vùng nào đó bên
bờ sông Nile, chinh phạt người Hutu bản xứ của mảnh đất này,
rồi bóc lột, nô dịch và tiêu diệt họ từ bên trong. Tutsi đã chiếm