nhau, trở nên vô hiệu, lộn xộn, lơi lỏng và bị xé rách ngay. Người
ta bắt đầu tìm các giếng còn nước một cách tuyệt vọng, cố gắng
đến được đó bằng mọi giá. Từ khắp chốn, người ta thúc đàn gia
súc đến vài nơi ít ỏi còn sót lại chút cỏ ấy. Mùa khô trở thành
thời kỳ nóng bỏng, căng thẳng, ác liệt và đầy chiến tranh. Khi đó
người ta phơi bày những đức tính tồi tệ nhất: ngờ vực, gian xảo,
tham lam và thù hận.
Hamed nói với tôi rằng thi ca của họ thường kể về các bi kịch
và sự diệt vong của các thị tộc không kịp đến được giếng nước
khi đi qua sa mạc. Một chuyến đi bi thảm như thế thường kéo
dài nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần. Cừu và dê chết trước tiên.
Chúng chỉ có thể chịu được vài ngày không có nước. Sau đó đến
lượt trẻ con. “Sau đó là trẻ con” - anh nói, không thêm gì cả.
Không kể các ông bố bà mẹ phản ứng ra sao, các đám tang như
thế nào. “Sau đó là trẻ con” - anh nhắc lại rồi lại im lặng. Trời
đang nóng đến mức nói cũng khó khăn. Vừa qua lúc giữa trưa
và ngột ngạt không thể thở được. “Rồi phụ nữ chết” - lát sau,
anh tiếp tục. “Những người sống sót không thể dừng lại lâu.
Nếu cứ dừng lại mỗi khi có người chết, họ sẽ không bao giờ đến
được giếng. Một cái chết sẽ kéo theo những cái chết tiếp sau. Thị
tộc từng tồn tại sẽ biến mất đâu đó dọc đường. Sẽ chẳng có ai
xác định xem họ đã đi đâu. Bây giờ tôi phải hình dung ra con
đường không tồn tại, nghĩa là không nhìn thấy được, trên đó là
đoàn người và súc vật mỗi lúc một hao mòn, cứ nhỏ dần và nhỏ
dần. “Đàn ông và lạc đà sống thêm được chút nữa. Lạc đà có thể
chịu được ba tuần không uống, và có thể đi xa năm trăm cây số
hoặc hơn. Suốt thời gian ấy, lạc đà cái sẽ cho chút sữa”. Ba tuần
là giới hạn cao nhất mà đàn ông và lạc đà có thể sống được, nếu
họ còn lại một mình trên mặt đất. “Một mình trên mặt đất!” -
Hamed thốt lên và trong giọng nói của anh có âm sắc hoảng sợ,
bởi đó chính là điều mà một người Somalia không thể hình