Những người mới đến này là các tín đồ Báp-tít và Giám Lý
cuồng nhiệt. Trên mảnh đất mới, họ dựng lên các ngôi nhà thờ
đơn sơ của mình, dành hết thời gian rảnh rỗi ở đó để hát thánh
ca và nghe các bài giảng đạo. Dần dà, các thánh đường này cũng
trở thành nơi gặp gỡ hội họp, một kiểu câu lạc bộ kín.
Rất lâu trước khi người Phi da trắng đưa chế độ apartheid vào
miền Nam châu Phi, hậu duệ của các nô lệ da đen - những kẻ
thống trị Liberia - đã phát minh ra và khai sinh hệ thống này từ
giữa thế kỷ XIX. Bản thân thiên nhiên và rừng rậm dày đặc đã
khiến cho giữa thổ dân và những người mới đến tồn tại một
ranh giới tự nhiên ngăn cách, tạo điều kiện cho sự phân biệt.
Nhưng điều đó vẫn chưa đủ. Trong thế giới Monrovia bé nhỏ và
cuồng tín, người ta ban hành lệnh cấm quan hệ gần gũi với dân
địa phương, đặc biệt là cấm thành hôn. Họ làm tất cả mọi
chuyện để “những kẻ mọi rợ biết chỗ của mình”. Với mục đích
đó, chính phủ Monrovia phân định cho mỗi bộ lạc (tổng cộng có
mười sáu bộ lạc) một địa phận họ được phép sinh sống - điển
hình cho các homeland dành cho người châu Phi mà mãi vài
chục năm sau mới được những kẻ phân biệt chủng tộc da trắng
thành lập ở Pretoria. Tất cả những ai phản đối điều này đều bị
trừng phạt nghiêm khắc. Chính quyền Monrovia cử quân đội và
cảnh sát hình sự cơ động đến những nơi có bạo loạn và kháng
cự. Thủ lĩnh các bộ lạc ngoan cố bị trừ khử ngay tại chỗ, dân
chúng nổi loạn bị giết hoặc bỏ tù, làng mạc của họ bị tàn phá,
mùa màng bị đốt trụi. Theo tục lệ cổ xưa của thế giới, các cuộc
viễn chinh, tấn công và các cuộc chiến địa phương này nhằm
một mục đích: bắt nô lệ. Bởi người Liberia-Mỹ cần nhân công.
Trên thực tế, từ giữa thế kỷ XIX họ đã bắt đầu dùng nô lệ riêng
trong các trang trại và công xưởng, cũng như bán nô lệ đến các
thuộc địa khác, đặc biệt là đến Fernando Po và Guinea. Cuối
những năm hai mươi của thế kỷ XX, báo chí quốc tế phanh phui