đi lên phía trước. Biết mình không thể đi xa, nhưng tôi vẫn tiến
lên, bước đi khó nhọc, lần lượt nhấc chân trái, rồi chân phải,
như thể kéo chúng lên từ bãi lầy sâu hút. Cuối cùng tôi nhìn
thấy một quán bar, cửa vào có tấm màn vải trúc bâu che kín. Tôi
vén màn, bước vào và đổ xuống cái ghế gần nhất. Tai tôi ù đi, cái
nóng như càng tăng lên, càng khủng khiếp hơn.
Trong bóng tối, phía sâu trong quán bar không người, tôi
nhìn thấy quầy thu tiền đổ nát, bẩn nhớp nháp và hai cái đầu
người nằm trên đó. Từ xa, trông chúng như hai thủ cấp bị chặt
mà ai đó để lại rồi bỏ đi. Đúng vậy. Rõ ràng là như thế, bởi hai cái
đầu không động đậy, không cho thấy dấu hiệu của sự sống.
Nhưng tôi không còn đủ sức để nghĩ xem ai đã mang những cái
đầu này đến và tại sao lại để ở đây. Sự chú ý của tôi bây giờ bị
hình ảnh cái thùng đựng những chai nước bên cạnh quầy chiếm
trọn. Bằng tất cả sức lực còn lại, tôi lết tới đó và bắt đầu uống hết
chai này đến chai khác. Mãi đến lúc ấy, một trong hai cái đầu
mới mở mắt, nhìn xem tôi làm gì. Nhưng hai cô bán hàng vẫn
không cựa quậy, họ bất động vì nóng, như những con thạch
sùng.
Đã có nước và một chỗ râm mát, tôi yên tâm chờ cho đến khi
những giờ nóng dữ dội buổi trưa trôi qua, rồi đi tìm khách sạn.
Có thể thấy rõ rằng các khu giàu có của Massawa hẳn đã từng là
sự pha trộn quyến rũ của kiến trúc nhiệt đới, kiến trúc Ý-Ả rập.
Nhưng giờ đây, vài năm sau chiến tranh, nhiều ngôi nhà vẫn
nằm trong đổ nát, trên vỉa hè đầy gạch ngói, rác rưởi và kính vỡ.
Trên một ngã tư chính trong thành phố có chiếc xe tăng lớn T-
72 của Nga bị cháy thui. Rõ ràng là người ta không biết làm thế
nào để vứt bỏ nó. Ở Eritrea không có cần cẩu nào có thể nhấc nó
lên. Không có toa xe nào có thể chở nó đi. Không có xưởng luyện
kim nào có thể nấu chảy nó. Người ta có thể đưa chiếc xe tăng vĩ
đại đến một đất nước như Eritrea, có thể dùng nó để bắn, nhưng