xanh xao trông như muốn chết của nàng khi ở giữa đám bạn cùng lớp ồn
ào, mắt nàng sáng rực.
Chỉ khi nói chuyện với Morino tôi mới không cần đeo bộ mặt giả tạo.
Nếu làm vậy với người khác hẳn người ta sẽ băn khoăn tại sao gương mặt
tôi lại không bộc lộ cảm xúc, không hề nở một nụ cười. Nhưng khi tôi nói
chuyện với nàng, chuyện đó không quan trọng.
Tôi đồ rằng cũng vì lý do tương tự mà nàng chọn tôi để nói chuyện khi
rảnh rỗi. Cả hai chúng tôi đều không thích trở nên nổi bật. Chúng tôi sống
lặng lẽ dưới cái bóng của lũ bạn cùng lớp sôi nổi.
Thế rồi kỳ nghỉ hè tới, tôi được đọc cuốn sổ tay kia. Ngày hôm sau,
chúng tôi gặp nhau ở nhà ga rồi đón tàu điện đi đến chân núi S.
Đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau ở ngoài trường học và cũng là lần
đầu tôi nhìn thấy Morino mặc quần áo thường nhật thay vì đồng phục. Tuy
nhiên nàng vẫn chọn trang phục tối màu như thường lệ. Tôi nhận thấy trong
mắt nàng tôi cũng chẳng khác gì mọi khi.
Tàu khá yên tĩnh và vắng vẻ. Chúng tôi không nói chuyện với nhau, mỗi
người đọc một quyển sách. Nàng đọc sách về ngược đãi trẻ em, còn quyển
của tôi thì do người thân của một tên tội phạm vị thành niên nổi tiếng viết.
Khi xuống tàu, chúng tôi hỏi bà cụ trông tiệm thuốc lá cũ kỹ trước nhà
ga có khoảng bao nhiêu quán mì soba ở gần núi S. Chỉ có một quán duy
nhất nằm cách đây không xa. Sau đó Morino nói một câu chí lý.
“Thuốc lá giết rất nhiều người nhưng những cái máy bán thuốc tự động
đang giết bà cụ này bằng cách cướp đi công việc của bà ấy.”
Nhìn nàng không có vẻ gì đang chờ đợi một câu trả lời thông minh nên
tôi bỏ qua.
Chúng tôi đi dọc theo con đường dẫn tới quán mì. Con đường lên dốc,
uốn lượn theo triền núi.
Quán mì đó nằm trong một dãy hàng ăn dưới chân núi S. Nơi ấy vắng vẻ
không chút náo nhiệt, chỉ lác đác vài bóng người và xe cộ. Chẳng có chiếc
xe nào trong bãi đỗ của quán mì soba nhưng quán dường như vẫn đang mở
vì có tấm bảng hiệu ghi “Mời vào”. Chúng tôi đi vào quán.