một phần tiền phạt mà kẻ bị bắt phải đóng cho ty quan thuế. Nhưng khi tàu
đoan
rượt một tàu buôn lậu trong cơn giông tố, chàng rất sung sướng:
“Tôi như điên! Tàu chạy thú quá! Nó nhảy đâm vào ngọn sóng trắng xoá
như một con ngựa đua. Tôi không ném nỗi nổi vui. Buồm căng, con tàu bổ
nhào xuống, và tôi, một thằng người chim chích ở giữa cơn giông tố, tôi chỉ
huy sự chiến đấu trong gió”. Chàng luyện tinh thần chiến đấu đó để sau này
thắng nghịch cảnh trong nghề cầm bút.
Chàng uống rượu dữ, say bí tỉ không biết bao nhiêu lần, có lần liên tiếp ba
tuần lễ. Người ta đã tưởng chàng truỵ lạc thành con người bỏ đi. Nhưng rồi
một hôm chàng biết nghĩ lại. Lần đó, chàng say quá, té xuống nước, dòng
nước cuống chàng ra biển. Chàng hồi tỉnh lại, lờ mờ hiểu tình cảnh, đập
chân đập tay cho khỏi chìm. Trong khi để mặc cho dòng nước trôi đi, chàng
bỗng cảm thấy tủi nhục cho cái đời mình mà trào lệ, muốn tự tử và trước
khi tự tử, chàng hát lên một điệu lìa đời. Chàng nằm ngửa trên nước mà
ngó sao lấp lánh trên trời và hát hết khúc này đến khúc khác, toàn một
giọng ai oán cho tới sáng thì chàng tỉnh hẳn, lạnh muốn cóng tay chân,
không đủ sức lội vào bờ nữa. Một người đánh cá vừa kịp vớt được chàng.
Từ đó chàng bớt uống rượu.
Một lần chàng bị một tên buôn lậu Trung Hoa bắt được trói lại, quẳng lên
một đảo hẻo lánh; may phúc chàng tự gỡ trói trốn thoát được trước khi nó
về. Truyện đó sau chép lại trong cuốn Le mouchoir jaune (Chiếc mùi xoa
vàng) tả đời nguy hiểm của bọn lính tuần biển.
Sau vụ đó, chàng xin nghỉ, đổi qua làm thuỷ thủ trong một chiếc tàu chạy
dọc theo bờ biển Nhật Bản và biển Behring (ở phía bắc Thái Bình Dương).
Chàng siêng năng làm đủ các công việc nặng nhọc trong tàu, có thì giờ thì
đọc sách, nhận xét bạn bè và đủ các hạng người mà chàng gặp. Lần đầu tiên
đặt chân lên Yokohama, chàng thán phục dân tộc Nhựt đã tiến hoá rất mau,
trong hai mươi năm đã xây dựng được những châu thành tối tân và đông
đúc bực nhất thế giới.