Chính những bại trận liên tiếp đó của Hi Lạp làm cho Anh, Pháp, Ý chán
nản, không muốn ủng hộ Hi nữa. Họ còn hèn hạ đến nỗi trở mặt, đề nghị
đứng ra điều đình giữa Hi và Thổ, vì họ biết rằng Thổ sẽ thắng mà như vậy
thì lúc này làm bộ nhân từ, giúp Thổ hoà giải với Hi, tất Thổ sẽ mang ơn
mà sau này sẽ vớt vát được it nhiều quyền lợi ở Thổ. Nhưng đề nghị đó bị
Hi gạt bỏ. Anh, Pháp, Ý bất bình với Hi, quay lại mơn trớn với Thổ. Ý thì
bán ngầm khí giới cho Thổ, còn Pháp thì ngoại giao lén với Thổ, ve vãn
Mustapha Kémal, phái Franklin Bouillon qua Thổ ký một mật ước với
chính phủ cách mạng. Thế là Pháp đã gạt Méhémet VI ra ngoài và mặc
nhận rằng hiệp ước Sèvres không còn hiệu lực. Rồi Pháp rút quân chiếm
đóng ra khỏi Cilicie, nhờ vậy Mustapha kéo được tám vạn quân ở miền đó
về mặt trận Hi (cuối năm 1921).
Thắng lợi đó rất lớn và Mustapha càng tin thế nào cũng đánh bại được Hi,
nên đầu năm sau, ông gọi thêm lính, chuẩn bị thêm quân nhu. Toàn dân
hưởng ứng; nhà nào cũng giúp đỡ quân đội: quần áo, giày dép, mền mùng,
lúa, muối, rơm, đường, đèn cầy, đinh, bột… Khắp miền Anatolie, đường xá
chật những xe bò, xe ngựa, xe lừa, chở đủ các thức ăn, dụng cụ để tiếp tế
quân đội, vui hơn là chợ phiên. Đầu mùa hè đó, một đạo quân mới, hăng
hái và tinh nhuệ, đã sẵn sàng tác chiến.
Lúc này quân lực Thổ gần ngang quân lực Hi: 103.000 Thổ và 132.000 Hi.
Hừng sáng hôm 26 tháng 8 năm 1922, Mustapha Kémal hô hào quân lính:
“Anh em sĩ tốt! Tiến!ục tiêu: Địa Trung Hải”.
Ông đã định rõ chiến thuật, xuất kỳ bất ý, tấn công ồ ạt, làm quân Hi trở tay
không kịp, thua to ở Dumulu Punar, và luôn mười ngày, bị quân Thổ đuổi
theo chém giết cho tới bờ biển Địa Trung Hải. Tướng Tricopis, tổng tư lệnh
và tướng Dionys, tham mưu trưởng Hi đều bị bắt. Hàng vạn lính Hi bị giết,