Cilabhadra ta dịch theo Tàu là Giới-hiền Pháp-sư, là một bực tu hành
gương mẫu và là một học giả trứ danh thời bấy giờ tại Ấn Độ. Như đã nói
trên, ông trụ trì chùa Nâlandâ, và một ngôi chùa có trước Công niên đâu cả
hai thế kỷ. Đại cổ tự nầy ở giữa một khu vực bao la, cảnh trí thơ mộng, nhà
cửa nguy nga. Hàng tăng lữ trong đó từ lâu nổi tiếng là những bực chân tu
và học cao hiểu rộng. Trong chùa có một thư viện khổng lồ chứa chất thiên
kinh vạn quyển, tủ sách Phật kinh đến các loại sách thuốc và sách khoa học
như địa lý, chiêm tinh, bói toán v.v... Dưới sự lãnh đạo của Giới hiền Pháp
sư, chùa Nâlandâ vốn lừng danh càng nổi tiếng hơn nữa về tu học và về kỷ
luật nghiêm khắc. Đã trên nửa thế kỷ thuyết pháp, đào tạo môn đồ, Giới-
hiền Pháp-sư khi trên trăm tuổi không còn giảng kinh nữa. Nhưng tương
truyền là Giới-hiền Pháp-sư trước khi Huyền-Trang đến đã nằm mộng thấy
thần linh cho biết ông sở dĩ được sống lâu là để chờ gặp một bực cao tăng
Trung-Hoa đến hầu truyền các lễ tế vi nhất của Phật pháp. Khi nghe tin
Huyền-Trang đến chùa Nâlandâ, Giới-hiền Pháp-sư như trẻ lại, tổ chức
rước tân khách vô cùng long trọng. Huyền-Trang khi gặp Giới-hiền Pháp-sư
quì xuống bái chào và xin làm đệ tử.
b) Huyền-Trang là ai?
Theo học giả Grousset trong cuốn"Theo vết chân Phật"(Sur les traces de
Bouddha- Plon xuất bản) thì Huyền-Trang sinh năm 602 tại huyện Lộ-Châu
tỉnh Hà-Nam của Tàu. Ông là con út của Trần-Tuệ một nho sĩ quí phái, đầy
tiết tháo. Thời Huyền-Trang ra đời là thời Nho giáo ở Trung-Hoa đi xuống
mà Phật-giáo thịnh hành. Chùa chiền mọc lên như nấm. Hàng tăng lữ được
chính quyền lẫn dân chúng kính trọng và hưởng nhiều bảo lộc. Ông quy y
tại chùa Tịnh-Độ hồi 13 tuổi. Tính nết thuần nhã, trí tuệ thông minh, lại
hiếu học, cầu tiến nên Huyền-Trang được thầy bạn trọng quí. Từ lúc quy y,
Huyền-Trang đêm đêm ngày ngày nghiên cứu kinh Phật. Ông bỏ ra gần 20
năm đi cùng khắp Trung-Hoa để tìm giáo lý chân truyền của Đức Phật.
Nhưng ông thấy ở đâu cũng không làm ông vừa ý. Kinh Phật chất hằng núi
mà đem đối chiếu nhau thì đầy mâu thuẫn. Thứ dịch mờ ám, thứ dịch sai,