giúp ba việc đồng, chúng tôi nghĩ tôn anh là chú cũng chẳng thiệt vì được
nhận lại tiếng anh ngọt ngào của bé Hai thương qúa. Vậy là chúng tôi đều
kêu nhau bằng chú, cùng ngầm hiểu ông vai chú lớn và tôi vai chú em. Tôi
thiệt lòng qúy và tin ở chú mọi sự. Chú cũng thương tôi đầy bụng và bỏ qua
cho nhiều chuyện. Nhiều kỷ niệm mà thời gian càng qua đi càng thấy là vô
giá.
Giá như bé Hai còn sống, cuộc đời tôi biết đâu đã khác. Cái chết của
Bé phần nào cũng do tôi. Chẳng là đội phẫu thuật dã chiến của tôi ẩn trong
địa hình. Bé từ chợ vô đồng, thường giúp chúng tôi mua thuốc ngoài thành
về. Dân quen lính, lính quen dân, dễ dàng qua mắt. Một lần, Bé chuyển
hàng vô, qua bót “dzàm”, không may có thằng thượng sỹ Mỹ mới về làm
cố vấn ở đây. Thấy gái trẻ, nó ngoắc vô. Cô bé rồ máy cho ghe lướt nhanh
qua. Thằng Mỹ giật khẩu AR15 từ tay tên đồn trưởng lia liền hết băng đạn.
Chiếc ghe lật úp xuống kinh, trong tiếng máy xặc nước, dòng máu đỏ loang
ra…
Ông già từ đồng về, mò xác con, chở thẳng lên bót. Tên đồn trưởng
người cùng xã, chỉ thằng Mỹ:
- Ai biểu ông cố vấn ngoắc, con nhỏ không vô!
Ông già cự laị :
- Nếu ông đồn trưởng ngoắc, con tui không “dzô” là lỗi ở nó! Còn
giống quỷ kia, nó ngoắc vợ con ông… có dại “dzô” không? Đàn bà con gái
vào tay lũ ấy sẽ lãnh điều chi, ông biết qúa đi rồi!
- Nó bắn, sao ông cự tui?
- Các ông đóng đồn bót là để bảo vệ dân chớ sao lại đem trứng mà gởi
cho ác “dzậy”?
- Tui mà cản nó thì mạng tui chẳng còn!
- Nó chỉ là thằng thượng sỹ. Ông là sỹ quan, Trung úy quân đội Việt
Nam cộng hòa, mà sao sợ nó?
- Nó quyền hơn cha mình chớ bạn bè đồng minh đồng mẽo chi! Cả
nhà ông Diệm, nó ngoắc một ngón tay là sạch ráo!
Chẳng có cái lý phải nào với những loại người này. Người mình mất
đành chịu thôi…