bến Chèm nhìn qua đất Phúc Yên, chúng tôi hát mừng chào đón các anh Vệ
quốc quân cảm tử cho tổ quốc quyết sinh, rút lui mà như người chiến thắng
trở về.Nhạc sỹ Lương Ngọc Trác ôm theo hai cây đàn violon đã tặng lại cho
tôi một cây. Như chàng hiệp sỹ Don Quichote tay giáo tay khiên, tôi theo
đoàn tung hòanh ngang dọc, vào biểu diễn mãi trong Liên khu Bốn.
Năm 1948, một hôm ra chợ tình cờ gặp bà bạn của mẹ tôi cùng ở
chung một phố, ra vùng tự do đón gọi con về. Cơn nhớ nhà, nhớ Hà Nội
nổi lên, sẵn người đưa đường dẫn lối và có bạn đồng hành, thuận chân tôi
theo luôn vào thành, nghĩ rằng về nhà chơi ít ngày rồi lại tìm đường ra,
chẳng có điều gì quan trọng cả. Dạo ấy, người đổ vào thành công khai đi
theo các ngả, cả hai bên tuy có kiểm tra nhưng không làm điều gì gay gắt.
Tôi đột ngột trở về trước sự ngạc nhiên của cả nhà. Cha tôi nghi tôi được
đánh lộn xòng vào. Tôi nói thật. Cụ bảo:
- Cái máu giang hồ lãng tử bốc đồng mau vui chóng chán thất thường
của mấy đứa đàn địch xướng ca dễ mang vạ vào mình. Bây giờ mày có trở
ra ai thèm nhận?
Tôi hiểu ra thì hối không kịp nữa. Tôi xin vào trường Chu Văn An tiếp
tục học năm đầu của hệ Đệ nhất cấp. Thương con, mẹ tôi lại mua cho cây
đàn violon làm bạn. Tôi tích cực tham gia các phong trào học sinh trong
trường nên dần được anh em tin tưởng kết nạp làm đoàn viên của tổ chức
Học sinh kháng chiến thành. Một hôm anh Tư Koóng – người phụ trách
phong trào học sinh, sinh viên thành chủ động gặp, khuyến khích tôi:
- Em hãy phát huy khả năng văn nghệ vốn có đóng góp cho phong trào
thanh niên học sinh không chỉ của trường mà cho cả thành phố nữa.
Tôi không từ chối việc gì khi đoàn thể yêu cầu.
Ở tuổi đôi mươi, lời ca tiếng đàn vừa thay lời tự sự vừa như tiếng gọi
bầy, đặc biệt với học sinh, sinh viên. Ban phụ trách luôn chú ý xây dựng
phong trào văn nghệ hội đoàn bạn trẻ và qua lời ca tiếng hát khơi gợi tinh
thần yêu nước, ý chí quật cường trong truyền thống chống xâm lăng của
ông cha ta.
Anh chị em học sinh Hà Nội lứa tuổi chúng tôi ngày ấy đến nay dù
đang ở phân tán nhiều nơi trong nước hay ở nước ngòai vẫn nhớ hai buổi