Ngảnh lại thấy ảnh thông Năng để trên lò sưởi, ông vớ lấy ném vào góc
tường, rồi ông vớ tất cả những bức thư kia bỏ vào trong tủ dùng làm tang
chứng, để ném vào mặt thằng phản bạn.
Thằng xe lên bẩm đến giờ đến sở. Thằng bồi tiêm vội hầu ông dăm điếu
nữa. Ông ngồi lên đeo cavát vào cổ, bấm khuy bấm trong khi ấy thằng bồi
tiêm quì dưới sàn nhịn thở để xỏ tất và xỏ giầy cho ông.
* * *
Trong suốt một tuần lễ, ông phán chờ mãi mà ông thông Năng không
đến. Ngày chủ nhật, ông phán chán ngán chẳng buồn bảo đày tớ mua hoa
để xuống nghĩa trang. Ông còn tiếc tiền mua xăng đổ vào cái xe ô tô cà khổ
để đi thăm mộ vợ, và thấy rằng những bó hoa hằng tuần ông kính cẩn đặt
lên mồ người đàn bà hồng nhan ấy là vô nghĩa lý, là một sự mai mỉa cho
ông.
Nhưng rồi... một chiều thu ông mở tủ lấy chiếc áo len của Thu đan cho
ông mùa đông năm ngoái để mặc cho khỏi siễn. Mùi băng phiến dễ gây mùi
nhớ tiếc... ông phán bùi ngùi nghĩ đến dáng điệu Thu lúc ngồi bên cửa sổ,
cạnh chiếc hỏa lò than hơ tay đan chiếc áo này cho ông. Ông ra đứng ngoài
thềm, và ông bỗng quên những con số nợ, số lãi chưa thu về để cảm khái
ngâm một bài thơ vịnh “Thu” mà ông không nhớ đã đọc ở một tờ báo nào,
ở đâu. Ngâm hết bài thơ ấy, ông thấy lòng buồn vô cùng, tưởng rằng nỗi
buồn của người sắp chui đầu vào sợi dây thừng cũng đến vậy mà thôi.
Thu về! Người ấy chiều nay đã biết lạnh thịt da và thấy lạnh cả tâm hồn.
Đó là sự báo hiệu của tình yêu. Nhưng hỡi người chồng già bị mọc sừng,
bây giờ người mới được biết bổn phận của kẻ làm chiến sĩ thì chậm quá
mất rồi.
Tự nhiên, cơn gió lạnh làm cho ông giác ngộ. Nghĩ đến cái rét của mình
buổi hôm nay, ông lại thương Thu đã chịu bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng