Học, cô Bắc, cô Giang, Sứ Nhu... Cùng với cơn gió lốc Chiêu hồn nước,
những lá truyền đơn bay khắp đất nước Việt Nam. Đẩy mạnh cơn giông tố
ấy nghề in ấn âm thầm phát triển, mạnh nhất là ở Hà Nội.
Nhà in lớn, nhà in nhỏ ra đời. Công cụ sản xuất vô cùng khiêm tốn.
Một hai cái máy nho nhỏ, gọi là máy Minerrve (máy công tử, đạp chân,
như thợ may máy khâu) mặt máy chỉ mang nổi từ 6 đến 8 bát chữ.
Việc chính của máy công tử là in hóa đơn cho nhà buôn, in thiếp cưới,
danh thiếp. In xong một cuốn sách 200 trang phải hàng tháng mới hoàn
thành. Còn in báo, hồi ấy, chủ nhà in có vốn mới dám mua máy lớn, mỗi
khuôn chữ có thể chứa được hơn 30 bát chữ. Thợ sắp chữ làm ban ngày, cố
sao cho kịp giờ buổi sáng để lên khuôn thử cả 4 trang, rồi dập hai bản thử
(morasse) đem đến Nha Thông tin, Phòng Báo chí trình kiểm duyệt. Lấy
được con dấu và chữ kí nhận của kiểm duyệt rồi, đến 2 giờ đêm hai công
nhân đứng máy (machiniste) mới bắt đầu cho máy chạy, đến 5 giờ sáng thì
in xong từ 3000 đến 5000 tờ, phát hành vào lúc tinh mơ, trẻ con lĩnh báo,
chạy rao khắp tỉnh.
Giấy sách, giấy báo phải mua của Pháp, tại nhà máy giấy Đáp Cầu.
Ngoài cơ sở này, không đâu có giấy. Chiến tranh Việt - Pháp nổ ra, nhà máy
giấy Đáp Cầu đổ vỡ. Ngành in không còn có giấy. Phải tìm đến cứu tinh là
giấy Bưởi, rất đắt và rất hiếm. Hồi đó, có một ông già công nghệ trong xóm
“Bưởi giấy” là ông Lại Viện sáng chế ra giấy dó. Loại giấy này dày lắm, in
sách và cũng cung cấp cả cho triều đình Huế dùng làm giấy sắc viết biểu
nhà vua, có triện thiên tử, đó là sắc phong của hoàng đế trị vì.
Thực dân cũng mở một nhà in lớn, gọi là nhà in Taupin, viết tắt IDEO
(nhà in Viễn Đông). Taupin không hề cạnh tranh với các nhà in người Việt.
Nó in báo Pháp và các thứ sổ sách giấy tờ cho nhà binh và công sở Pháp.