Hòa-ước 1862 ép vua Tự-Đức nhường cho Pháp ba tỉnh miền đông
Nam-kỳ mà Pháp đã chiếm năm 1861. Vua Tự-Đức muốn chuộc đất lại.
Không những Pháp không thuận, mà còn chiếm thêm ba tỉnh miền tây Nam-
kỳ, năm 1867.
« Một bên thì nền cai-trị lập ra bởi đô đốc La Grandière để dự-bị mở-
mang thuộc-địa một cách vô-giới-hạn. Một bên thì phái quan-phiệt mạnh-mẽ
An-nam muốn đi ngược dòng lịch-sử. Thế nào cũng sẽ xẩy ra những sự
xích-mích và xung-đột liền-liền ». Đó là lời của viên toàn-quyền Vial trong
sách « Nos premières années au Tonkin » in năm 1889.
Cái cớ để xâm-chiếm Bắc-kỳ là vụ Jean Dupuis (Đồ-phổ-nghĩa) tự-tiện
chở khí-giới cho Vân-nam trên sông Hồng-hà. Pháp thấy đó rất có lợi cho sự
mình cạnh-tranh thị-trường Trung-hoa, đối với các cường-quốc Âu-Mỹ
khác, cho nên triệt-để ủng-hộ Dupuis. Đô-đốc Dupré phái Francis Garnier
(Ngạc-nhe An-nghiệp) đem quân ra Hà-nội. Vua Tự-Đức cũng sai Nguyễn-
Tri-Phương từ vùng Sơn-tây về Hà-nội lo việc phòng-thủ. Garnier đem quân
đóng ở Tràng-thi (phía nam phố Tràng-thi ngày nay), thị-uy và ép Tri-
Phương. Tri-Phương không chịu điều-đình trực-tiếp, mà chỉ qua triều-đình
Huế. Thấy binh-lực ta kém, và nhờ các thám-tử, biết nhân-tâm trong xứ li-
tán, Garnier định chiếm thành Hà-nội. Ngày 19 tháng 11 năm 1873 (mồng
một tháng mười năm Quí-dậu), Garnier gửi tối-hậu-thư cho quan Khâm-sai,
yêu-cầu : « Giải-giáp quân-lính giữ thành, và sức cho các quan tỉnh phải
tuân lệnh của Garnier ». (theo Vial)
Chiến-tranh bùng nổ lập-tức ở Hà-nội. Với non một trăm quân và hai
chiến-thuyền yểm-hộ, Garnier hạ thành, Nguyễn-Tri-Phương thân-hành
cùng con là phò-mã Nguyễn-Lâm mới tới thăm cha, chống giữ cửa Đông-
nam.
« Quân An-nam chống-cự. Tự trên thành ném gỗ, đá, hỏa-hổ xuống.
Quan Khâm-sai điều-khiển rất cương-quyết ; nhưng bị mảnh trái phá bắn
vào đùi. Quân thấy vậy liền tan. Ông lên ngựa toan chạy trốn. Nhưng có tên
thông-ngôn tố-giác, nên bị bắt và bị giam cùng các quan lớn khác. Khi thấy