bệnh ra sức đánh, đi đầu trước quân binh. Bắn chết hơn trăm, liều giữ nửa
buổi.
« Nó đủ, ta kiệt ; viện tuyệt, thế cùng. Vũ-biền thì sợ giặc mà chạy
hàng đàn, văn-thần thì ngóng chừng mà tan cả lũ.
« Lòng tôi như cắt, một tay khôn cầm. Tướng-lược không tài, tự nghĩ
sống là vô-ích ; thành mất chẳng cứu, ví bằng chết cũng chưa đền. Đem thân
định quyên sinh, không thể học Tào Mạt hay dọa địch ; theo cổ đền trách-
nhiệm, chỉ mong theo Trương Tuần chết giữ thành.
« Giám đâu trung-nghĩa gọi là, chỉ vì sự-thế bắt-buộc. Đất trung-thổ trở
nên địch-địa, sống thẹn cùng phường nhân-sĩ Bắc-hà ; lòng cô-trung thề với
Long-thành, chết mong theo Nguyễn-Tri-Phương dưới đất.
« Mấy hàng huyết-lệ, muôn dặm quân-môn. Nguyện ánh-sáng nhật
nguyệt soi tỏ tấm lòng son của tôi mà thôi.
« Tự-Đức năm thứ 35, ngày mồng tám tháng tư ».
*
CHÚ-Ý :
Bài biểu này nguyên bằng Hán-văn, viết theo lối tứ-lục, gồm từng hai
câu đối một, trừ một vài câu ngắn ở đầu tiết hay cuối bài. Tôi gắng dịch theo
văn lối ấy.
Tôi đã theo một bản chép cũ. Hiện nay tôi chưa có bản khác để so-sánh.
Vả sách Đại-Nam Thật-lục cũng không hề nói đến di-biểu ấy.
Mà sự so-sánh ấy rất cần. Vì nó có thể giải-quyết một câu-hỏi mà tôi
nêu ra, là bài di-biểu này có thật của Hoàng-Diệu viết ra, hay là của người
khác viết thay cho ông sau khi ông đã mất.
Có sự nghi ngờ ấy, là bởi trong bản của tôi cũng như trong bản mà ông
Khuê trai đã dùng trong bài Hoàng-Diệu đăng báo Tri-Tân số 182, đều chép
lầm ngày Pháp hạ chiến-thư. Các bản ấy đều chép : « Bản nguyệt sơ thất
nhật, tiên hạ chiến-thư, thứ nhật cấp kích », nghĩa là ngày mồng BẢY tháng
này, trước hạ chiến-thư, ngày sau đánh gấp. So với lời thông Phong đã kể rõ-