Tôi nhìn theo, từ phía đàng cái, Năm Khụ đang quờ quạng chiếc gậy
tre rẽ vào ngã quán. Thấy lão, tôi hiểu ngay vì sao bà quán vui mừng, cũng
ngay lúc ấy, bà quán mỉm cười bảo tôi :
- Có cái bao tời sọc xanh này thì không cần phải lo nữa :
Bao tời sọc xanh là một thứ biệt hiệu mà người làng đã gán cho Năm
Khụ từ lâu. Sở dĩ lão được gọi như thế không phải chỉ vì lão có một thực
lượng ít người sánh kịp, mà còn vì cái ăn, đối với lão, là cả một lẽ sống,
một lý tưởng. Ngay từ thuở còn thơ ấu, tôi đã thấy sự góp mặt của Năm
Khụ trong cuộc sống này rồi. Lão là một kẻ tật nguyền, một hạng phế nhân.
Vì lão mù lòa. Lúc nào lão cũng có vẻ mù lòa thật sự với cặp mắt đục
nhương nhướng, cái đầu trọc hay cúi xuống và chiếc gậy tre dài quờ quạng,
hết đập lóc cóc phía tả, lại đập lóc cóc qua phía hữu, để dò dẫm lối đi.
Nhưng ở lão có hai đặc điểm rất lạ đã làm cho lão không hổ danh chút nào
với cái biệt hiệu bao tời sọc xanh. Trước nhất là tuy mù lòa nhưng lão rất
sáng về cái ăn và vào lúc cần ăn. Ở đâu có ai chôn con vật nào, heo chết hay
gà chết hoặc chó chết chẳng hạn, là Năm Khụ cũng khám phá ra, mò mẫm
đến, lén lút đào lên cho kỳ được để khai thác, thu hồi những gì có thể bỏ
bụng. Lại khi ngồi vào mâm là lão như thấy rõ cả các món ăn và xử dụng
đôi đũa một cách thật là thần tình, nhanh nhẹn quá người tỏ mắt. Nhưng lạ
hơn nữa là trong làng có bao nhiêu nhà khá giả, nhà nào có mấy đám giỗ
trong năm, đám giỗ nào lớn, nhỏ đáng làm heo hay làm bò, thường cúng
chay hay cúng mặn, lão đều nhớ giăng giăng trong bụng, như các nhà thâm
nho hồi xưa nhớ kinh sử và điển tích vậy. Cứ đến ngày là đã thấy lão lò dò
chống gậy, vần chuyển cái tấm thân lùn, béo trục, đen đủi của lão đến rồi.
Lúc thường lão chỉ mặc vỏn vẹn có một cái quần đùi. Ngày nào có giỗ lão
lại khoác vào người chiếc áo cụt rách. Đối với lão chiếc áo cụt rách ấy là áo
lớn rồi. Thành thử cứ thấy lão mặc áo là đám phụ nữ làm việc ngoài đồng
thường cười rúc rích, bảo nhau :