trỏ vào đống đồ ngổn ngang trước hiên rồi nhỏ to bàn tán những gì với
nhau. Hai người đàn bà trọ gian số tám vừa ló đầu ra khỏi cửa đã quay vào
nhìn nhau cười. Người già bảo người trẻ :
- Ông Thị dọn đến ở rồi đấy !
- Ông Thị nào ?
- Thị Phùng chứ còn Thị nào ?
Người đàn bà trẻ đứng im một lúc, có dáng suy nghĩ :
- Thị Phùng nào ? Thị Phùng, ai biết lão ấy.
- Lão Thị người ôm ốm, thấp thấp con người, độ trước mỗi khi lên
sòng bà Chúa thường hay đi với thằng cha Ba Hy ấy, không biết à ? Hai vợ
chồng đi đâu vắng có sáu, bảy tháng trời nay bây giờ mới lại trở về Huế.
- Thế thì tôi không biết. Nhưng ông Thị, ông Tham gì mà lại tồi thế,
khổ thế.
Người đàn bà trẻ bảo ông Thị là tồi, là khổ vì trông thấy đống đồ của
mụ già chở đến chẳng có cái gì có giá trị, đẹp đẽ, nên hình, nên dáng cả. Và
cũng chẳng có gì nhiều. Một bức phản ngựa mọt đã ăn loang lổ đây đó, một
cái bàn nhỏ, thô và cũ, bốn cái ghế đóng theo kiểu xưa, một cái giường
mùng bằng gỗ tạp cũng đã cũ lắm rồi, hai chiếc chõng tre, mấy chiếc chiếu
hoa ướm rách, nhạt cả màu, mấy tấm mùng hình như đã lâu ngày chưa giặt,
vùi lẫn với ba bốn cái chăn mỏng màu tro xám thành một đống to tướng
trông vừa bẩn, vừa lôi thôi, một cái rương chuông có ràng dây chẳng biết ở
trong chứa những thứ của quí gì, hai cái thùng gỗ khá lớn đựng nồi niêu,
chén bát và những đồ dùng lặt vặt khác. Đấy là cả đồ đoàn của gia đình ông
Thị. Và ngần ấy thứ của chẳng đẹp mắt lại đem bày ngổn ngang, lộn xộn
ngay trước hiên nhà, trông nó càng tang thương, thiểu não lạ lùng. Nhưng
rồi người ta chẳng phải nhìn lâu cái cảnh khổ mắt ấy. Chỉ trong mấy tiếng
đồng hồ, mụ già và hai người phu xe cũng đưa xe đi đâu mất. Mụ già đi mãi