cũng đáng ghét lắm. Cái thân đã vô dụng đến mức ấy, mà vẫn lắm lời, lắm
tiếng, còn hay lải nhải luôn mồm. Cả ngày ăn rồi có chịu nằm yên đâu. Ăn
rồi thì nằm ngửa ra mà chửi, kể lể con cà, con kê một mình mình nghe, rồi
lại kêu trời, kêu đất rồi lại khóc, và thỉnh thoảng tự nhiên vật mình, vật mẩy
mà hét to lên, làm như có ai đánh, ai đập không bằng. Ai trông thấy ông ta
như thế mà chẳng khen ông Thị bà Thị là giỏi chịu. Chứa chấp được một
người anh tàn tật, vô dụng, hôi hám, thối tha mà lại chẳng biết thân, biết
phận như thế ở trong nhà kể cũng là hết chỗ tử tế rồi, đã hết lòng với anh
em rồi. Trên đời này ăn ở được như vậy đã có mấy người. Nhưng ông Chột
có thèm nghĩ gì đến những chỗ ấy đâu. Ông ta chỉ ăn rồi làm rày rà, và làm
khổ mụ vú. Nhiều kẻ ở trọ cùng dãy nhà này cũng phải khổ lây, phải mất
ăn, mất ngủ vì ông Chột. Người ta ghét ông Chột vô cùng. Ông Thị bà Thị
tuy ghét cay, ghét đắng nhưng vẫn điềm nhiên, và nhờ cái lối hay kêu rêu,
rầy rà ấy mà ông Chột lại sướng hơn bà cụ. Vì khuya lại cứ mỗi lúc ông Thị
bà Thị về nhà là thế nào cũng ăn uống trước khi ngủ. Mà ăn ngon và ăn
sướng. Phở, cao lâu, nem chả, cháo gà hay cháo vịt hay là cháo lòng. Toàn
là những món ngon lành và khá đắt tiền. Ông Chột nghe ăn là đã lồm cồm
ngồi lên đằng hắng mấy tiếng. Và khi ông Chột đã ngồi lên như thế thì liệu
chừng mà không cho ông ta nhắm nháp ít nhiều ! Ông Chột làm rầy ngay :
ông thở ra thở vào, gãi đầu gãi tai, đập chân đập tay rồi lại bắt đầu kể lể.
Ông kể lể những gì có ai nghe được đâu vì cứ động mở mồm ra nói lên mấy
tiếng là bà Thị đã quát :
- Thôi im đi ! Im đi ! Cho một bát cháo đấy, nuốt đi rồi mà ngủ. Rầy
lắm.
Thế là ông Chột nuốt hết bát cháo rồi ngủ. Chỉ có bà cụ là khổ thôi. Bà
cụ không dám kêu rêu như ông Chột, cũng chẳng có cái quyền được ăn xén
ăn bớt như mụ vú già. Bà cụ chỉ im lặng. Im lặng mà chịu đói, chịu thèm và
nghĩ nhiều đến miếng ăn để rồi lại đâm ra làm những chuyện bất lương
thiện. Và khuya đến, bà cụ nghe ăn, thèm lắm, cũng lồm cồm ngồi lên, cũng