KHÓC THẬT
ĐÃ ba hôm, Cả Khánh cứ theo lạy lục tôi mãi để xin được ngồi thờ
trước hiên mà bày bài vụ. Thoạt tiên, tôi không bằng lòng, nhưng rồi sau
nghĩ đến cái tình cảnh khốn khổ của hắn tôi cũng thương tình mà phải cho.
Hắn sở dĩ cứ theo cầu khẩn mãi vì hắn ngắm địa thế ở đây rất tốt. Ngồi đây,
hắn không lo bị các bác phú-lít chộp cổ một cách thình lình. Họ ít đi rảo về
ngả này lắm. Hay họ có đi nữa thì hắn cũng có thể nom thấy trước được để
tìm đường tẩu thoát. Con đường kiệt ở đầu nhà ăn thông ra ngã bờ sông là
một lối cho hắn tháo lui rất tiện.
Sớm nay hắn mang đồ nghề đến. Bàn vụ là một tấm bìa cứng hình
vuông trên mặt kẻ thành chín ô vuông đều nhau. Ở ba ô vuông hàng thứ
nhất, từ trái qua phải, hắn dán sẵn vào đấy hình ba con động vật. Một con
heo, một con voi, một con trâu. Hàng thứ hai : một con ếch, một con ngựa
và một con rùa. Hàng thứ ba trong ô thứ nhất một con tôm, ô thứ hai hắn để
trống và ô thứ ba một con cá. Những hình các con thú kể trên in bằng nhiều
màu sặc sỡ, nét vẽ ngây ngô, trông vui mắt như những bức tranh tết thường
bày ở chợ vào dịp này. Đặt xong bàn, Cả Khánh lấy từ trong bọc ra một cái
chén gỗ, một cái đĩa nhỏ và một con vụ.
Con vụ này có tám mặt, mỗi mặt vẽ một con thú đã nói trên kia. Hắn
đặt chiếc đĩa vào cái ô vuông để trống, bỏ vụ vào đấy, rồi úp chén lại. Một
vài đứa trẻ con bắt đầu vũ tới, nhưng chúng vũ tới chỉ để xem mà thôi.
Trong lúc ngồi chờ khách, Cả Khánh phát xu cho lũ trẻ để chúng đánh dạo.
Những xu này hắn sẽ thâu về một khi người đến đánh đã đông. Và hắn
không phải chờ lâu lắm. Chỉ một lát thôi, những người đàn bà rỗi việc ở gần
đấy, những người vú em, mấy bà lão lần lượt kéo lại đứng quanh chiếc bàn
vụ như những con ruồi bu quanh giọt mật. Khi thấy đã đông người, Cả