rồi. Chuyến ni thì tôi phải chết mất. Đứa nào mà nó ăn vô hậu như rứa thì
xin thánh vật cổ nó đi, xin các quan cho nó hộc máu ra chừ chừ.
Hắn lắp đi lắp lại ngần ấy câu để rồi lại khóc, lại đập chân tay mà kêu
trời :
- Đứa nào đã nuốt của tao thì nhả ra. Bay ăn mần rứa thì cũng không
khác chi bay ăn tất cả đồ nhơ nhớp của xóm này. Bay có nhả ra thì mồ mả
ông bà bay mới yên, mới khỏi có kẻ đào kẻ bới. Tao chửi, tao chửi miết.
Tao chửi cả dòng họ đứa nào đã ăn tươi nuốt sống hai rổ xu với bạc giác.
Tao đào mồ ông, mồ cha hắn ra.
Nhưng dẫu hắn đào mồ, quật mã chửi bới mỏi cả mồm, rát cả cổ cũng
chẳng có đứa nào đã nuốt sạch cả vốn tiếng của hắn lại dại mà nhả ra. Trời
cao quá, đất dày quá, thánh thần thì ở xa quá, hắn kêu chẳng thấu và cũng
chẳng ai vật họng giùm cho hắn cái đứa đã ăn tươi nuốt sống hai rổ hào xu.
Hắn chửi thì hắn nghe lấy, hắn khóc thì hắn cũng nghe lấy. Chửi mãi cũng
mỏi mồm, khóc mãi cũng mỏi mắt, hắn đành phải nuốt tiếc ngậm hờn mà
đứng lên.
Thấy cái tình cảnh đáng thương tâm của Cả Khánh, tôi gọi hắn vào và
cho hắn mấy hào bạc. Lúc này mà muốn an ủi hắn thì chỉ có cách ấy là mầu
nhiệm hơn hết. Được bạc, vẻ mặt hắn cũng bớt thiểu não đi. Hắn ngồi nhổm
ở một góc, tấm tức bảo tôi :
- Mất bạc lần này là vì thằng Tư Sẹo. Tức lắm. Để rồi nó xem tôi.
- Ai bảo đã ốm yếu thế mà còn cà khịa với hắn làm gì.
- Ấy cái nghề đã tức lên thì cần gì yếu mấy khỏe. Nó đánh tôi cũng
chẳng được mấy cái và chẳng đau lắm. Chỉ uất có một chuyện là bị mất bạc.
Tiếc quá là tiếc !
Nói xong, hắn lại rơm rớm nước mắt. Trông cái bộ dạng Cả Khánh lúc
ấy rất dễ tức cười.