cọc, cỏ nhét trong mồm cho toàn dân Saint Antoine nhìn ngắm và
nhảy múa reo mừng.
Công việc tàn bạo của ngày hôm đó chưa kết thúc, bởi dân Saint
Antoine đã hò hét, nhảy múa sôi máu hận, lại sùng sục oán thù lần nữa
vào cuối ngày khi nghe tin con rể của kẻ đã bị giết - một kẻ thù và kẻ
xúc phạm nhân dân nữa - đang đến Paris cùng với năm trăm quân hộ
tống, toàn kỵ binh. Dân Saint Antoine ghi tội người này trên những tờ
giấy phấp phới, rồi bắt sống - hẳn là họ phải tấn công vào cả đạo quân
mới bắt được anh ta chịu chung số phận với Foulon - chặt đầu và moi
tim bêu trên cọc nhọn, và cả đoàn người lang sói ấy rước cả ba chiến
lợi phẩm diễu khắp phố phường.
Mãi đến tối mịt đoàn đàn ông, đàn bà ấy mới về với lũ con đang la
khóc, đói ăn. Thế là các tiệm bánh khốn khổ lại bị họ xếp hàng dài bao
vây, nhẫn nại chờ mua những ổ bánh mì ôi mốc; trong lúc chờ chực
với cái bao tử rỗng teo tóp, họ giết thời gian bằng cách ôm nhau mừng
chiến công vừa qua, bàn tán hồi tưởng các sự việc trong ngày. Dần
dần, những chuỗi người rách rưới cũng thu ngắn và xơ xác dần, rồi
những ngọn đèn tù mù bắt đầu sáng trên các cửa sổ cao, và những
đống lửa leo lét được nhóm trên đường phố, các nhà lân cận gom góp
nấu ăn chung, rồi sau đó họ ngồi ngay ngưỡng cửa húp xì xụp.
Bữa ăn tối thiếu thốn, ít ỏi, không có thịt và cũng không có chút
nước xốt nào cho miếng bánh mì thảm hại. Nhưng tình bằng hữu đã
pha trộn ít hương vị béo bổ vào đồ ăn khô cứng, khơi cho người rạng
chút cười vui. Những ông cha, bà mẹ đã bỏ trọn ngày tham gia những
việc tồi tệ ấy giờ đang dịu dàng chơi đùa với đám con thơ gầy còm; và
những tình nhân - giữa thế giới bao quanh chờ đón - lại yêu nhau và
hy vọng ngày mai.
Tới gần sáng, khi tửu quán của Defarge giã biệt những vị khách
cuối cùng, anh Defarge với nói với chị vợ bằng giọng khản đặc lúc
đóng cửa nẻo:
− Rốt cuộc ngày đó đã tới, mình ơi!