sát khác thường, và chiếc mũ bonnet to đùng trên đầu vừa giống cái
mũ vệ binh lại vừa rất giống cái đấu gỗ đong thóc, hoặc giống một
khoanh pho mát lớn. Người này giải quyết ngay chuyện tách rời ông
già khỏi cô gái trẻ tội nghiệp bằng cách đặt một bàn tay to khỏe lên
ngực ông và xô cho một phát dội ngược vào bức tường gần nhất.
(“Đàn bà gì mà mạnh như đàn ông!” Đó là ý nghĩ của ông Lorry
ngay khi va vào tường muốn tắt thở.)
− A, coi tụi bay kìa! - Chị ta quát tháo đám giúp việc. - Sao không
đi lấy các thứ cần mà đứng đó trố mắt nhìn tao hả? Tao có gì mà nhìn?
Sao không đi lấy các thứ đi? Tao bảo cho hay, tụi bay mà không đem
muối ngửi, nước lạnh với giấm tới đây cho mau thì để tao đi lấy.
Đám giúp việc lập tức phân tán đi lấy các thứ giúp hồi tỉnh, còn chị
ta nhẹ nhàng đặt Manette lên trường kỷ, chăm sóc hết sức khéo léo và
dịu dàng, luôn mồm hết gọi “cưng ơi!” lại gọi “em ơi!” và vuốt mái
tóc vàng xõa tung của cô gái ra hai bên vai một cách tự hào và chu đáo
vô cùng.
− Còn ông áo nâu kia! - Chị ta tức tối quay lại bảo ông Lorry. - Cái
gì đáng nói thì hẵng nói, chứ sao lại làm cho cô ấy sợ chết khiếp thế
này? Ông nhìn coi, cô ấy mặt tái xanh, tay lạnh ngắt đây này. Người
của nhà băng mà làm vậy sao được?
Ông Lorry đâm ra luống cuống vì câu hỏi khó trả lời ấy, tới mức
ông chỉ biết đứng từ xa nhìn tới với vẻ thương cảm và nhún nhường cố
đè nén trong lúc người đàn bà mạnh mẽ kia, sau khi tống cổ đám giúp
việc đi với lời đe dọa trừng phạt bí hiểm là “cho tụi bay biết tay” -
không rõ chúng sẽ biết gì nếu còn dám đứng đó giương mắt nhìn - lại
tiếp tục nhiệm vụ làm cho Manette từ từ hồi tỉnh, và dỗ dành cô gái
gục đầu vào vai chị ta.
− Mong là cô ấy đã khỏe lại, - ông Lorry nói.
− Có khỏe lại cũng chẳng nhờ tới ông áo nâu kia. Ôi, cô gái bé
bỏng!