Hoa rừng đưa khách đường thông một,
Khe núi chia dòng nước rẽ hai.
Sơn quỷ đuổi nhau rồng nép bóng,
Khói mây cửa động nửa phên gài.
Bài thứ 2
Sấm vang gió thét sóng ào ào,
Đàn vượn bên khe thót nhảy cao
Mắt ngắm biển khơi xanh thẳm thẳm,
Chân giày dặm cát trắng phao phao,
Cổ đằng nghìn trượng xuyên hang đá,
Bích nhụ muôn tua rủ động đào.
Cát nóng giữa truông ngồi nghỉ mệt,
Hơi thu bỗng đã lạnh nao nao.
Sáng bữa sau (tức mồng 2 tháng Bảy), đình trú ở chùa Di Đà.
Nhà chùa chật hẹp, không đủ chỗ chứa đông người, phải phân tán ở
Quan Âm đường và các nơi khác. Nghỉ ở tạm ít ngày, sẽ lên tàu về
nước; chẳng cần làm thêm nhà cửa, sợ phiền khổ quân dân. Nhưng Cai
bá chẳng dám làm trái lệnh Quốc vương, rạng ngày đã thấy tre gỗ tấp
nập, buổi sáng khởi công, chiều đã làm xong tám chín gian liêu xá,
chính giữa dựng một gian nhà rộng để tiếp khách. Vì Hội An là một
mã đầu lớn, nơi tập họp của khách hàng các nước; thẳng bờ sông, một
con đường dài ba bốn dặm, gọi là Đại Đường Cái, hai bên đường hàng
phố ở liền nhau khít rịt, chủ phố thảy đều người Phúc Kiến, vẫn ăn
mặc theo lối tiền triều (nhà Minh). Phần đông phụ nữ coi việc mua
bán. Những khách trú ở đây hay cưới vợ bản xứ cho tiện việc thương
mãi. Cuối đường là cầu Nhật Bản, tức Cẩm Phố; cách bờ bên kia tức
Trà Nhiêu, nơi đình bạc của các tàu ngoại quốc. Nhân dân đông đúc,
cá tôm rau quả tập họp mua bán suốt ngày. Thuốc Bắc hay các món
hàng khác, tìm mua ở Thuận Hóa không có thì người ta vào mua ở
đây. Đại ước Hội An đông nam bắc ba mặt gần biển, chỉ có phía tây
đường núi liên tiếp, thông Tây Việt và Đông Kinh. Vì thế cách phía
tây chừng mười dặm có đặt một nha trấn thổ như vương phủ để phòng