nhiên, sức người quá nhỏ nhoi không sao định được. Sực nhớ Đại tạng
ký bảo rằng: “Những tỳ kheo thông hiểu ý kinh Lăng nghiêm, Pháp
hoa, đi vào núi rừng có quỷ thần ủng hộ, đi ra hồ hải có Long vương
ứng chầu”, bèn khiến lấy cây cờ: Long vương miễn triều cắm lên, tức
thì thuyền chạy yên ổn; ngồi dậy dòm ra cửa sổ, thấy trời âm u không
mưa; mịt mù trời nước một màu, trơ trọi con thuyền, như một chiếc lá
thả trong một bầu hồng hoang hỗn độn; mênh mông tứ phía, không
bám bíu nương tựa vào đâu, cảnh giới này không sao tả rõ được.
Thường bảo miền núi Giang Bắc, không gò cao dốc trũng, chỉ thấy
một vùng cao nguyên đại lục; nay mặt hải dương cũng giống vậy, lượn
sóng liên tục, bao la mênh mông, sắc nước xanh như chàm, dính áo cả
tháng không khô, người xưa gọi chất dính ấy là “hải đính”. Sách Nhĩ
nhã bảo rằng: nhựa chàm nhuộm được gọi là “đính”, vì có thấy ở chỗ
này.
Trên thuyền lặng lẽ, thủy thủ và chủ thuyền mỗi người coi một
phần việc đều tỏ dáng đăm đăm lo sợ; ngoài ra những người khác mửa
ói bừa bãi; đi đứng ăn uống như thường chỉ được hai ba người mà
thôi. Ta bị đau dạ dày, có người dìu mới đi được, không thì té ngã
xiêu. Ngày thường qua sông Dương Tử, gió bấc thổi hơi mạnh, đã rụt
rè không dám đi, nay biển cả thả thuyền, xông pha sóng to gió lớn,
nghĩ cũng thích thật. Mới biết thuyền lớn muôn hộc, chẳng gặp gió to
sóng cả, làm sao biết sức chạy hay. Bởi thế những bậc kỳ sĩ ngang
tàng, trong thời loạn, gặp Minh vương, đều có thể kiến công lập
nghiệp; nếu ở thời bình, gặp chúa tầm thường, ắt không khỏi vấp ngã
lao đao. Trang sinh bảo rằng: “Đưa cái chén vào vũng nước giọt thì cái
chén mắc cạn”, là ý ấy vậy. Kinh hồn mất vía, chẳng dám ngó lâu;
ngậm vài quả thanh mai, đóng cửa khoang buồng, nép gối nằm nghỉ.
Làm thành bài Độ dương ca, ghi nhớ Nương Công, Thạch Đại Tư Mã.
Tháng Giêng buổi nửa đêm mười chín,
Bỗng bắc phong thổi đến ào ào.
Đà công thủy thủ xôn xao,
Hớt hơ hớt hải kẻ gào người la.