trượng và có đóng 3 con dấu: “Tào Động chính Tông tam thập thể”,
“Nguyễn Phúc Châu ấn” và “Thiên túng đạo nhơn”. Việc ấy có thể
chứng thực hai sử sự mới sau đây: Việc thứ nhất, Khang Hy năm thứ
34 (1695), lúc Đại Sán đến nước Việt đã xưng thế thứ 29 dòng Tào
Động, đến sau khi truyền Bồ Tát giới cho Nguyễn Phúc Châu ở Quảng
Nam lập ông làm pháp tự, đặt cho danh hiệu là “Tào Động chánh tông
đời thứ 30” và đạo hiệu Thiên Túng đạo nhơn.
Việc thứ hai, cứ theo Đại Nam thực lục tiền biên (quyển 8 và 9-
10) ghi chép, họ Nguyễn ở Quảng Nam lúc đầu xưng trấn thủ, đến
Khang Hy năm thứ 31 (1692) tức Nguyễn thị đệ lục đại Phúc Châu kế
lập, năm thứ hai, mới xưng “Quốc chúa”, kế đến tháng Chạp năm Kỷ
Sửu thứ 18 (1705) mới bắt đầu đúc quốc tỷ, khắc chữ “Đại Việt Quốc
Nguyễn vương Vĩnh Trấn chi bửu”, lại đến Càn Long năm thứ 9
(1744) đệ bát đại Phúc Khoát (tức Võ Vương 1738-1765) ở Phú Xuân
(tức Thuận Hóa) mới chính thức tức vương vị, đúc vương tỷ, đổi
“phủ” xưng làm “điện”, các công văn còn noi dùng quốc hiệu và niên
hiệu Lê triều. Nay xem bài Bổn sư Hải ngoại kỷ sự tự, biết rằng Phúc
Châu đã xưng Đại Việt Quốc vương sớm từ năm Bính Tý (1695), trên
sự thực trước ngày xưng vương của Phúc Khoát đến 48 năm. Việc
đáng chú ý hơn hết, là Đại Sán đối đãi Phúc Châu, xưng hô bằng Quốc
vương chẳng chút kiêng kỵ, thậm chí trên bài “khải” còn tôn xưng lên
làm “Đại vương” là khác nữa.
Xét các bài dẫn ra trên đây, Đại Sán tự xưng đích tự của Giác
Lãng thiền sư, đã là một việc rất khả nghi, y xưng pháp tự thứ 29 dòng
Tào Động, lại bị bài xích làm hỗn loạn thế thứ, nay y lại đem pháp
thống truyền cấp cho phiên Quốc vương, thì sự làm sôi nổi sóng gió
giới Phật giáo Trung Hoa là lẽ tất nhiên vậy. Đại Sán xưng Nguyễn
Phúc Châu làm Đại Việt Quốc vương, ví sử y có ý a dua, cũng chẳng
qua thừa nhận địa vị thực tế của ông ấy mà thôi, nhưng đối với luật
nhà Thanh và đối với đại nghĩa danh phận của phái đạo học, thì cũng
như y đã thông đồng với ngoại quốc, trao đổi riêng danh hiệu với