“Hứa Trung thừa Tự Hưng làm Án sát sứ (hiện nay do Hà Nam
bố chánh sứ thăng Phúc Kiến tuần vũ), rất ghét Đại Sán, bèn ra lệnh
bắt trị; xét rõ gian trạng trước sau, đánh đòn đuổi đến Cống Châu. Y
đình trú ở sơn tự, hưng khởi trở lại, tín đồ quy y rất đông. Giang hữu
Lý Trung thừa Cơ Hòa lại đuổi đi, áp giải về nguyên quán, giữa
đường, chết ở Thường Sơn”.
Đại Sán sinh và mất vào năm nào, Hummel chép Thanh đại danh
nhơn liệt truyện, vừa dẫn ra trên đây, ghi vào Công nguyên 1633-1702
(tức Sùng Trinh năm thứ 6 đến Khang Hy năm thứ 41). Nay xét bài
của Mậu thị, năm Thuận Trị Mậu Tý (1648) lúc Giác Lãng thiền sư tạ
thế, Thạch Liêm mới 16 tuổi, thì năm sinh của ông ta chắc chắn là
năm 1633, nhưng bút giả chưa tìm được điển cứ nào có thể chứng tỏ
Đại Sán mất vào năm 1702.
Xét Hứa Tự Hưng nhiệm Quảng Đông án sát sứ vào năm Khang
Hy 41 (1702), tại nhiệm 2 năm, năm Khang Hy 43 (1704) thăng Hà
Nam Bố chánh sứ230. Còn Lý Cơ Hòa do Hồ Bắc Bố chánh sứ thăng
Giang Tây Tuần vũ vào năm Khang Hy 43 (1704)231. Thế thì Đại Sán
bị Hứa Tự Hưng bắt tra hỏi và đuổi về Cống Châu sơn tự phải ở vào
khoảng năm Khương Hy 41 (1702); y lưu ở lại Cống Châu chừng 1
năm, nhơn đó “phục hưng trở lại, tín đồ quy y rất đông”, cho nên năm
Khang Hy 43 (1704) lại bị Giang Tây Tuần vũ Lý Cơ Hòa đuổi, áp
giải về nguyên quán, nửa đường chết ở Thường Sơn.
Việc Hứa Tự Hưng xử án Đại Sán, phải chăng có quan hệ với lời
hạch tội của Phan Thứ Canh, điều đó hiện nay chưa có cách gì đoán
định được, nhưng trong ấy có những dính líu quanh co hay hay.
Khoảng tháng 8 năm Khang Hy 30, lúc Hứa Tự Hưng đương nhiệm
chức Đồng tri Mân Châu vì những lỗi “làm nhục thuộc viên và hạch
sách đòi ăn hối lộ tiền bạc, ngựa v.v” bị Tuần vũ Y Đồ dâng sớ tham
hạch, phải bị cách chức; qua năm 34, quyên tiền được phục chức, năm
38 được bổ Hồ Quảng Hạ Kinh Nam, đến năm 41 đổi đi Quảng Đông
Án sát sứ. Kịp đến tháng Mười hai năm 45, lại nhơn việc thẩm án
chẳng đúng sự thật, bộ xử phạt giáng một cấp, đổi đi chỗ khác; sau