giống như bờ đê khước nguyệt. Nổ mấy phát pháo lớn, ra hiệu cho
trong bờ biết có tàu đến nơi. Cửa biển vẫn chưa trông thấy, chỉ thấy
trên mặt biển có một làn sóng dợn xa xa. Bỗng chốc, một lá buồm
hình lưỡi rìu, từ phía mặt trời lặn chạy lại; lúc đến nơi, trời đã nhá
nhem tối. Nhìn thấy một người ở trần mang khố, đầu búi tóc có giắt
lông nhím, răng đen, nói líu lo; người ấy vì không phải phụng mạng
mà lại, nên không dám lên tàu. Trên tàu có người muốn xuống thuyền
xem chơi, người ấy cũng không chịu. Hai phiên tăng, nguyên người
nhà vua sai sang Quảng Đông, ra hỏi chuyện, người ấy bèn thi lễ. Lấy
dây giong phiên tăng xuống thuyền, để chạy đi thông báo với quốc
vương. Kế có một chiếc thuyền lại, có một viên quan cũng búi tóc đi
chân không, chong đèn ngồi canh giữ không đi.
Suốt đêm ồn ào, ngủ không yên giấc. Rạng sáng thuyền tứ phía
chèo đến đông như kiến cỏ. Người bản xứ chen lấn, giành mua các thứ
giày, mão, bít tất, quạt... rất thích mua thứ dù che mưa.
Qua giờ Thìn, có hai chiến hạm của nhà vua sai quốc cậu đem ra
đón, hai phiên tăng cũng trở lại, thi lễ xong, lập tức giục xuống
thuyền, nói có quốc cậu đương kính chờ bên thuyền. Vài mươi thủy
quân võng ta xuống, nổi trống đồng hò hát chèo đi. Thuyền sơn son
láng bóng soi mặt được, tả hữu đều 25 chèo, thủy quân rất mạnh mẽ,
cửa khoang thuyền chạm long vân, sơn đỏ, trên che đệm có đằng văn,
dưới trải chiếu lát mịn màu xanh lục, lò đốt kỳ nam hương, hộp vàng
bày cau trầu, có đủ các thứ gối tựa ống rổ.
Đến công đường ở bờ biển, công đường tức nhà thâu thuế, chỉ có
một gian lợp bằng cỏ gianh. Quả quốc sư và quốc cậu rước ta lên bộ,
bày lễ vật của quốc vương có các thứ kỳ nam, trân châu, vàng bạc...
lạy và nói rằng: “Nhà vua bận quốc chánh, chưa có thể đón xa, nên
biện chút lễ mọn, khiến chúng tôi kính rước. Nhà vua sẽ ra ngoài đô
môn vài dặm để đón mừng đạo giá, xin lão hòa thượng lượng tình
nhậm lễ cho”.
Kế đó kiểm điểm hành lý, từ biệt chủ thuyền, một đoàn bốn chiếc
thuyền nhỏ chèo đi. Hai bờ lúa ruộng xanh xanh chờ trổ bông, hỏi