có 3 người đứng, đầu đội hồng kim khôi, mình mặc áo nhung lục, tay
cầm kim câu trường thương, một tên nài cầm câu liêm ngồi trên vai
voi. Phía đông, 500 quân cầm đao thương và đuốc châm lửa, xây mặt
về phía voi đứng. Đằng sau đài đặt những bù nhìn bện rơm như hình
quân lính.
Cờ lệnh trên đài phất lên. Ba quân múa đao thương, nhắm hàng
voi xông tới. Hỏa khí đốt lên, khói bay mù mịt, voi vẫn đứng yên.
Bỗng chốc, trống đồng đánh liên hồi, các quân phấn dũng xông vào
voi, bọn nài bổ câu liêm vào đầu, võ sĩ đâm vào đùi. Bầy voi chạy
thẳng đến rượt đuổi. Quân lính lui tránh; mỗi con voi lấy vòi quấn một
bù nhìn bằng rơm đem về. Thớt voi nào chạy hơi chậm, liền bị thương
đâm búa bổ, chảy máu đứt da, đến đỗi có con quá mệt, phục quỵ
không thể dậy nổi. Tan trận, lấy đó phân hơn thua.
Vương thuật chuyện rằng: “Bản quốc có những tê ngưu và voi đi
từng bầy trong núi. Muốn bắt voi sống, người ta đem hai con voi cái
thuần đi dụ, voi cái kèm voi rừng cho người ta lấy dây lớn cột chân
vào gốc cây, giam cho đói khát ít ngày, rồi người nài lần đến gần, cho
ăn uống. Lâu dần quen, hai voi cái bèn kèm voi mới về giao cho một
viên quản tượng.
Thường thường có 50 lính coi việc diễn tập. Mấy năm gần đây,
những trận đánh với Đông Kinh (Thăng Long - Hà Nội), Chiêm
Thành, quân ta thắng trận phần lớn nhờ sức voi vậy. Thời tiên vương
có một con voi ra xung phong hãm trận, chủ tướng bị địch giết bèn lấy
vòi quấn thây chạy vào hang núi giấu kín; quay trở ra, nổi xung chạy
vào trận địch, đánh phá tung hoành.
Ba quân hùa theo, kết quả được toàn thắng. Sau lúc thâu quân,
voi đến quỳ trước trướng, dẫn người đi tìm hài cốt chủ cũ đem về chôn
cất, rồi bỏ ăn, chết theo chủ. Đến nay, mả nghĩa tượng đương còn.
Nhơn hỏi thăm việc diễn binh tập tượng ở Trung Quốc, ta trình bày tỉ
mỉ phép diễn võ cho nghe, và làm bài Thao tượng hành để hoài niệm
Bái Tướng quân rằng:
Quốc vương thành tâm việc cung dưỡng,