dưng nhìn quanh, rồi lại quay về với mối bận tâm riêng.
Nhưng còn cái đầu thứ chín. Hai bả vai hắn co lại, kéo lưng thu vào.
Đầu hắn cúi gập xuống, như thể để tránh một cú đánh vào sau gáy. Hắn
không quay lại nhìn, hắn không thể; cú sốc khiến hắn đờ người trong giây
lát. Rồi sau đó, khi tình trạng ấy lắng xuống, Quinn có thể thấy hai bên
sườn hắn phập phồng theo từng nhịp thở khó nhọc. Và khi hắn đưa bàn tay
lên một giây sau đó, những đường rìa của nó cũng lờ mờ, ngay cả đối với
đôi mắt bình tĩnh của Quinn, vì bàn tay đó đang run bần bật.
Phản ứng: dương tính. Dương tính với tội lỗi. Còn gì khác ngoài cảm
giác tội lỗi có thể khiến người ta thu mình lại như thế, co rúm lại thành một
đống như thế? Và, Quinn nhắc nhở bản thân, có thể còn có những triệu
chứng rõ ràng khác mà anh đã bỏ sót. Chẳng hạn, nếu như bàn tay phải bị
giấu kín đã định rút ra một khẩu súng ra khỏi túi áo, thì chỉ bức tường đối
diện với bàn tay đó có thể chứng kiến. Quinn đã để hụt mất nó. Đến khi anh
muốn quan sát bàn tay đó thì đã quá trễ; nó đã lại bất động như trước.
Anh trở lại chỗ của mình, đá vu vơ vào một mảnh vỏ ốc, hoặc cũng có
thể là hai miếng kính, trên đường đi.
Nhưng lúc này giữa họ đã hình thành ý thức về nhau, và bắt đầu cuộc
quyết đấu tay đôi đầy ý nhị trong việc giả bộ không ý thức được sự hiện
diện của người kia, thể hiện trong từng cử chỉ nhỏ nhất. Vành mũ được ấn
sụp xuống, thấp hơn rất nhiều. Nhưng đôi mắt sáng rực một cách bệnh hoạn
ẩn bên dưới nó không nhìn xuống mặt quầy như đang giả bộ, Quinn biết rõ
điều đó. Cũng giống như đôi mắt của chính anh, hướng về phía trước, tới
tấm gương, kỳ thực chỉ quan tâm tới những hình ảnh phản chiếu trên bề
mặt của nó. Như thể mỗi người đều có một chiếc ăng ten vô hình được
chỉnh sóng, rất nhạy với người kia.
Hắn đã cảm nhận được gì đó, Quinn tự nhủ. Không phải bởi bất cứ
điều gì mình đã làm; mà chính sự bất động, việc không nhận thức được sự
hiện diện của hắn từ phía mình đã đánh động hắn. Mình đã quá tĩnh tại,