HẬN LÃNG BẠC
Trương Thái Du
www.dtv-ebook.com
Chương 6
Tất nhiên chồng của bà Trưng không phải tên Thi Sách, mà là Thi.
Các sử gia thế kỷ 20 đã chứng minh được việc nhầm lẫn tai hại này. Người
Âu Lạc hình như chưa có họ, cho nên Trưng Trắc nhiều khả năng là chức
danh, chứ không phải tục danh của Lạc tướng M’linh. Cô và anh đã đi đến
thống nhất ý kiến về điểm này.
Họ đã tham khảo rất kỹ lưỡng nhiều tư liệu lịch sử nhưng không thể
chấp nhận cách giải thích cho rằng tên gọi Trưng Trắc và Trưng Nhị là xuất
phát từ nghề dệt lụa truyền thống Việt Nam. Điều này thật khó được giải
thích là cách gọi trại đi của trứng chắc, trứng nhì là hai loại tổ kén sâu tằm.
Trong các mộ táng, mộ thuyền thời Hai Bà Trưng, người ta chỉ thấy các
loại vải bông, gai, đay. Dấu vết của lụa tơ tằm chưa xuất hiện như một sản
phẩm phổ thông bản địa vào thời Hai Bà Trưng.
Truy lục tài liệu dân tộc học của người Minangkabau ở Indonesia và
Malaysia, cô phát hiện một điều rất lý thú. Nền văn hóa của tộc người này
mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ.
Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới.
Lãnh thổ chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?).
Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên
gọi là Luak Undang (Lạc tướng?). Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc
gọi là Turun Cicik (Trưng Trắc?), tất cả các em gái bà này nằm trong hàng
thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (Trưng Nhị? - Tiếng Bahasa Indonesia lần
lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi).