làm tiêu chuẩn, dùng thuật hình danh để tham bác.
Việc nào hợp pháp thì làm, không hợp pháp thì ngưng : công trạng xứng
đáng với lời nói thì thưởng, không xứng thì phạt. (…) Như vậy bậc vua
chúa trị dân đâu được an nhàn !”.
使人又非所佚也, 人主雖使人必以度量準之, 以刑名參之, 以事;
遇於法則行, 不遇於法則止; 功當其言則賞, 不當則誅(...)君人者焉
佚哉!
( Sử nhân hựu phi sở dật dã dĩ hình danh tham chi. Nhân chủ tuy sử nhân,
tất dĩ độ lượng chuẩn chi. Sự ngộ ư pháp tắc hành, bất ngộ ư pháp tắc chỉ ;
công đáng kì ngôn tắc thưởng, bất đáng tắc tru… Quân nhân giả yên dật tai
! ).
Vậy vô vi của Hàn khác vô vi của Lão, của Khổng : Lão vô vi được là nhờ
theo tự nhiên, theo đạo, không can thiệp vào đời sống của dân ; Khổng vô
vi được là nhờ có đức khéo cảm hoá dân, dùng lễ, nhạc, ít dùng hình pháp ;
Hàn chỉ dùng hình pháp để trị dân, dùng thuật bắt dân cáo gian, can thiệp
vào đời sống của dân, nhất là dùng tâm thuật, phải tính toán lo lắng nhiều,
không tin cậy ai cả, có khi không dám ngủ chung với vợ con nữa, lại phải
giữ ý, dụng ý trong mỗi cử chỉ, lời nói, nét mặt, chẳng hạn cúi đầu xá con
ếch (để khuyến khích các dũng sĩ) như vua Việt, giữ kĩ chiếc khố cũ (để
thưởng kẻ có công lao) như vua Hàn (Nội trừ thuyết thượng) ; như vậy đâu
phải là vô vi, mà là cực hữu vi, đâu có ung dung, nhàn tản như họ Khổng,
họ Lão.
Danh từ vô vi thời Chiến Quốc cũng như danh từ dân chủ ngày nay ai
muốn hiểu sao thì hiểu. Phải chăng vì vậy mà nó thành một lí tưởng hấp
dẫn.
Chú thích:
Coi thêm Đại cương triết học Trung Quốc - quyển thượng thiên
II, chương II - Cảo Thơm 1965.