Đầu tiên Ngoại trừ thuyết tả thượng Hàn Phi chép lại một cố sự lí thú. Vua
Sở chê lời của Mặc Tử không văn nhã, tô chuốt, một môn đệ của Mặc Tử
bênh vực thầy, kể ra hai việc: con gái Tần Mục Công về làm dâu nước Tấn
mà trang sức, không đẹp, sang bằng các nàng hầu, thành thử bọn nước Tấn
yêu bọn thiếu nữ đó hơn cô dâu (họ choá mắt vì sự tô chuốt mà coi thường
nội dung); một thương nhân nước Sở bán hạt châu cho nước Trịnh, quá
trang sức cái hộp, và người nước Trịnh chỉ mua cái hộp và trả lại hạt châu
(họ thấy nội dung tầm thường nên không dùng). Rồi môn đệ của Mặc Tử
đó kết: “Ngày nay người ta bàn luận đều thích dùng lời khéo léo văn hoa,
bậc vua chúa thấy cái văn hoa mà quên rằng những lời đó vô dụng. Thuyết
của Mặc Tử truyền cho cái đạo của tiên vương, luận lời của thánh nhân để
tuyên cáo cho mọi người. Nếu dùng những lời văn hoa tô chuốt thì sợ
người ta chỉ nhớ cái văn hoa mà quên cái hữu dụng của học thuyết, như vậy
là lấy cái văn hoa làm hại cái hữu dụng (dĩ văn hại dụng), không khác gì
việc người nước Sở bán hạt châu, vua Tần gả con gái”.
“Dĩ văn hại dụng” là cái tật của rất nhiều người cầm bút trong những thời
theo chủ trương duy mĩ. Ít nhất là về điểm đó Hàn Phi không phản đối
Khổng Tử. Vì Khổng bảo: “Lợi cốt diễn được ý là đủ rồi” (
辭达而已矣 -
Từ đạt nhi dĩ hĩ - Vệ Linh công 40).
Chúng ta còn nhớ “thực tế” là tính cách nổi bật nhất của Pháp gia. Đưa ra
một lí thuyết nào, đặt ra một qui chế nào, họ nhằm trước hết sự ích lợi của
quốc gia, nếu làm cho quốc gia phú cường là tốt, ngược lại thì dù cao siêu,
tốt đẹp đến đâu cũng phải bỏ. Vì vậy họ áp dụng triệt để qui tắc danh phải
hợp với thực của Danh gia, nhưng lại ghét bọn ngụy biện như bọn Công
Tôn Long vì những biện luận của bọn đó đều là hư ngôn hết. Hàn Phi chỉ
trong có mấy hàng đã cho ta thấy rõ ông khinh họ ra sao:
“Nghê Duyệt là người nước Tống, giỏi biện thuyết, đưa ra thuyết “ngựa