giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo
bị giết, bị giặc bắt hay cầm tù; đó cũng là cái công cực lớn vậy mà kẻ ngu
không biết, cho là tàn bạo.
Kẻ ngu cũng muốn cho được trị đấy nhưng lại ghét cái làm cho trị; chúng
ghét cái nguy đấy, nhưng cũng thích cái làm cho nguy. Làm sao biết được
vậy? Hình phạt nghiêm và nặng là cái dân ghét, nhưng nhờ đó mà nước trị;
thương xót trăm họ, làm nhẹ hình phạt là cái dân thích nhưng vì đó mà
nước nguy. Thánh nhân đặt pháp luật cho nước thì tất nghịch với đời mà
thuận với đạo đức. Hiểu biết lẽ đó thì cứ theo điều nghĩa
khác thế tục. Trong thiên hạ số người hiểu lẽ đó mà ít thì điều nghĩa bị chê
{mà thế tục thắng}.
*
Bọn học giả đời nay thuyết phục các vua chúa, không bảo : “Nên dùng cái
thế uy nghiêm để làm khốn bọn bề tôi gian tà", mà đều bảo: “Chỉ nên dùng
nhân nghĩa, huệ ái mà thôi". Bậc vua chúa đời nay quí cái “danh” là nhân
nghĩa mà không xét cái "thực", cho nên (tai họa) lớn thì nước mất, thân
chết, nhỏ thì đất bị cướp, vua bị coi hèn. Làm sao biết rõ điều ấy? Thi ân
cho kẻ cùng khốn, như vậy đời gọi là nhân nghĩa; thương xót trăm họ,
không nỡ trừng phạt, như vậy đời gọi là huệ ái. Nhưng thi ân cho kẻ cùng
khốn thì kẻ không có công được thưởng, không nỡ trừng phạt thì kẻ bạo
loạn không ngừng làm bậy. Nước có kẻ không có công lao mà được thưởng
thì dân, bên ngoài không lo việc cự địch, chém đầu giặc, bên trong không
gấp ra sức canh tác, mà đều muốn dùng tiền của, hóa vật thờ kẻ giàu sang,
làm việc thiện riêng, gây danh dự để được chức cao, lộc hậu. Vì vậy mà
bọn bề tôi gian lo việc riêng càng đông mà bọn bạo loạn càng mạnh. Còn
đợi gì nữa mà nước không mất? Hình nghiêm là cái dân sợ, phạt nặng là cái
dân ghét, cho nên thánh nhân bày cái dân sợ ra để cấm kẻ tà; lập ra cái dân
ghét để phòng kẻ gian, nhờ vậy mà nước yên, bạo loạn không nổi dậy. Tôi
xét vậy mà biết rõ rằng nhân nghĩa, huệ ái không dùng được mà nghiêm