12. Hung hãn, không hoà nhã, ương ngạnh không nghe lời can gián mà
hiếu thắng, không nghĩ tới quốc gia, khinh suất tự tín thì có thể mất nước.
13. Ỷ vào sự kết giao, viện trợ (của nước xa) mà khinh thường các nước
láng giềng gần, trông vào sự cứu giúp của nước lớn mà khiêu khích nước
sát nách với mình thì có thể mất nước.
14. Để bọn cư sĩ kiều cư nước mình nhận nhiều tiền hối lộ của nước
ngoài, trên thì bàn mưu kế với vua, dưới thì tiếp xúc với dân, như vậy có
thể mất nước.
15. Dân không tín nhiệm tướng quốc, kẻ dưới không yêu quí bề trên, mà
vua vẫn tin yêu không phế bỏ ông ta thì có thể mất nước.
16. Không dùng hào kiệt trong nước mà tìm và phong kẻ sĩ nước ngoài,
không trắc nghiệm bằng công lao mà thích căn cứ vào danh vọng để cử
dụng hay truất bỏ, bọn du sĩ kiều cư đột nhiên được tôn quí, lấn các bề tôi
cố cựu, như vậy có thể mất nước.
17. Khinh đích tử (con trưởng, tức thái tử), coi ngang hàng với con thứ,
(hoặc) ngôi thái tử chưa định mà vua đã qua đời thì có thể mất nước.
18. Không thận trọng
mà không biết hối hận, nước loạn mà tự cho
mình là hiền tài, không lượng thực lực trong nước mà khinh thị kẻ địch ở
bên cạnh, thì có thế mất nước.
19. Nước nhỏ mà không xử nhũn, sức yếu mà không kiêng nước mạnh, vô
lễ mà khinh lờn nước láng giềng mạnh, tham lam, ương ngạnh, vụng giao
thiệp, thì có thể mất nước.
20. Đã lập thái tử rồi mà còn cưới vợ từ nước địch mạnh, lập làm hoàng
hậu thì thái tử nguy, quần thần sinh ra nghi ngờ, suy nghĩ, thì có thể mất
nước.
21. Khiếp nhược, cam phận, tuy sớm thấy mối hoạ mà vì nhu nhược,
không ngăn cấm được, tuy biết rằng việc có thể làm được mà không dám
làm, thì có thể mất nước.
22. Vua còn lưu vong tại nước ngoài, trong nước lập vua khác; thái tử làm
con tin ở nước ngoài chưa về mà vua lập thái tử khác thì trong nước chia rẽ,
như vậy có thể mất nước.
23. Làm nhục đại thần, sau lại thân cận với họ, trừng phạt nặng dân nhỏ,