lỗi lớn. Khiến cho ở trên vua có lỗi lớn, như vậy mà mong nước không bị
diệt vong, là điều không thể được.
Nguyên văn là tri (
知) thuật chi sĩ, có sách đọc là trí thuật; chúng tôi
nghĩ nên đọc là tri để ứng với năng (năng pháp chi sĩ) ở dưới. Cả hai đều là
động từ hết.
Hạng quý tộc quyền cao chức trọng thủ cựu, chỉ nghĩ tới tư lợi.
Nguyên văn: tại thằng chi ngoại = phần ở ngoài lằn dây mực tức phần
phải đẽo hoặc cưa bỏ đi.
Nguyên văn: lễ ti, có sách giảng là không được thấy (dự) những lễ lớn;
ý nói là không được trọng vọng.
Nguyên văn: dĩ tư kiếm nhi, cùng chi = mượn cây kiếm riêng mà trừ đi,
tức là dùng thích khách để trừ.
Xét mọi mặt xem có hợp nhau không rồi mới quyết đoán.
Câu này chúng tôi lấy ý mà dịch.
Họ Lữ đây là hậu duệ của Lữ Vọng, được phong làm vua nước Tề. Họ
Điền làm đại thần ở Tề, sau cướp ngôi Tề. Coi chú thích thiên Ngũ đố.
Họ Cơ là họ vua Chu và một số vua chư hầu: Lỗ, Tấn, Trịnh.
Chỗ này chắc thiếu một câu: Kẻ tả hữu của bậc vua chúa không nhất
định là người hiền.
Một ẩn sĩ liêm khiết đời Chu: Coi truyện Bá Di trong Sử kí của Tư Mã
Thiên – Văn Học tái bản 1994.
Vì gian thần cấu kết với nước ngoài, khuyên vua cắt đất để thờ nước
ngoài.
Nước nhỏ chịu lệ thuộc nước lớn, tức như thuộc địa của nước lớn.
Phù là thẻ tre (hay gỗ) để làm tin. Ghi hiệu lệnh trên thẻ đó rồi chẻ làm
hai, một nửa giao cho kẻ thừa hành, một nửa thì mình giữ lại.
Như khi vua chết hoặc bị tiếm ngôi. Có sách giảng là khi vua thay đổi