biến mất tại một khúc quanh trên đường, hai người lại tiếp tục hành trình.
“Chà, cậu John Dillinger, cậu biết con đường này từng được dùng làm gì
không?”
“Kể tôi nghe đi, Otto.”
“Đây là trung tâm buôn bán đồng hồ báo thức cúc cu. Nghe nói bao giờ
chưa?”
“Tất nhiên. Bà nội tôi có dùng một chiếc. Ông nội tôi đã tháo hết tạ ra
khỏi dây xích nên nó chết hẳn rồi. Tôi ghét cái đồng hồ chết tiệt đó. Cứ một
tiếng qua đi, nó lại cúc cu, cúc cu… “
“Và đây chính là con đường các lái buôn thường dùng để mang đồng hồ
ra chợ bán. Bây giờ không còn nhiều thợ đồng hồ nữa, nhưng có thời cậu sẽ
thấy xe cộ nườm nượp lên xuống đường cao tốc suốt ngày đêm… Chà,
nhìn đằng kia kìa. Thấy con sông đó không? Nó đổ ra sông Danube, còn
các con sông phía bên kia con đường đổ ra sông Rhine. Đây là trái tim của
đất nước chúng tôi. Dưới ánh trăng nó đẹp tuyệt vời đúng không?”
Gần đó, một con cú kêu lên, gió vi vu và băng giá phủ trên những cành
cây giòn tan như vỏ lạc trên sàn quán rượu.
Anh ta nói đúng, Paul nghĩ, đây là một nơi tuyệt đẹp. Và trong thâm tâm
gã cảm thấy sự thỏa mãn lạnh khô như lớp tuyết lâu ngày dưới gót giày.
Những bước ngoặt dường như không có thật biến gã thành kẻ cư trú trên xứ
sở xa lạ. Nhưng gã đã đi đến quyết định rằng xứ sở này vẫn chưa xa lạ bằng
đất nước nơi xưởng in của em trai gã đang đợi gã, một thế giới gã biết mình
sẽ chẳng bao giờ quay về.
Không, nhiều năm trước gã đã bỏ lại cuộc đời ấy sau lưng, bỏ lại bất kỳ
hoàn cảnh nào liên quan đến một nghề kiếm ăn khiêm tốn, một ngôi nhà
ván lợp gọn gàng, một người vợ sáng ngời, đáng yêu với những đứa trẻ tinh
nghịch. Nhưng điều này hoàn toàn tốt đối với gã. Paul Schumann chẳng
mong muốn gì hơn những thứ mình đã có vào lúc này: bước đi dưới ánh
mắt e thẹn của vầng trăng khuyết, với một người bạn đồng hành dễ tính
trên một hành trình hoàn thành mục đích Chúa đã ban tặng cho gã - ngay cả
nếu đó là một sứ mệnh khó khăn và táo bạo để chỉnh sửa lại những sai lầm
của Chúa.