đẫn. Một viên đạn găm vào một bên đầu hắn. Máu bắn tung tóe trên đất và
bức tường gạch.
Gã ngước mắt lên, nhìn thấy một người khác, trong bộ trang phục bằng
vải flannel màu xám đen, đang đến gần gã. Theo bản năng tự nhiên, gã vơ
lấy khẩu súng ngắn của tên đã chết. Đó là dạng súng tự động có một cái
chốt trên cùng, gã tin là một khẩu Luger. Nhằm vào ngực người đàn ông,
Paul liếc mắt. Gã nhận ra người này đến từ quán Nhà Bia. Ông ta đang ngồi
trên hàng hiên, cắm cúi xem một tờ báo - Paul cho là vậy. Ông ta đang nắm
chắc khẩu súng ngắn, một khẩu tự động loại lớn, nhưng không chĩa vào
Paul. Ông ta vẫn đang nhắm vào tên nằm dưới đất.
“Đứng im,” Paul nói bằng tiếng Đức. “Bỏ súng xuống.”
Ông ta không bỏ súng xuống nhưng cho rằng tên ông đã bắn không còn
là mối đe dọa, nên bỏ tọt vũ khí của mình vào túi.
Ông nhìn lên nhìn xuống ngõ Dresden. “Suỵt,” ông thì thầm, rồi nghiêng
đầu lắng nghe, sau đó chậm rãi đến gần. “Schumann phải không?” ông hỏi.
Paul không nói gì. Khẩu Luger của gã vẫn nhắm vào người lạ, đang cúi
xuống trước mặt kẻ bị bắn. “Đồng hồ của tôi.” Những từ này được thốt ra
bằng tiếng Đức, trọng âm nhẹ.
“Cái gì cơ?”
“Đồng hồ của tôi. Đó là thứ tôi lấy ra.” Ông ta rút ra một chiếc đồng hồ
bỏ túi, mở nó ra và giơ mặt pha lê lên trước mũi và miệng tên kia. Không
còn dấu hiệu nào của hơi thở. Ông cất đồng hồ đi.
“Cậu là Schumann?” ông ta lặp lại, hất đầu về chiếc va li nằm dưới đất.
“Tôi là Reggie Morgan.” Ông ta cũng khớp với mô tả Avery đã cung cấp:
tóc đen, có ria mép cho dù ông ta mỏng cơm hơn nhiều so với tên kia.
Paul nhìn lên nhìn xuống con ngõ. Chẳng còn ai khác nữa.
Màn trao đổi nghe có vẻ vụng về, với một xác chết trước mặt, nhưng
Paul vẫn hỏi, “Chuyến tàu tốt nhất đến được Alexander Plaza là chuyến
nào?”
Morgan đáp nhanh, “Chuyến số 1-3-8… Mà không, thực ra chuyến số 2-
5-4 tốt hơn.”
Paul liếc nhìn cái xác. “Vậy thì hắn là ai?”