23
D
ù sao thì ngay ngày hôm sau tôi cũng đã làm được một việc hay, là trở
lại Rancy đúng vào lúc Bébert đang ốm. Đồng nghiệp Frélichon vừa đi
nghỉ, cô nó ban đầu còn ngập ngừng nhưng rồi chị ta yêu cầu tôi chữa chạy
cho thằng cháu, có lẽ vì tôi lấy tiền rẻ nhất trong số các thầy thuốc mà chị
ta quen biết.
Chuyện xẩy ra sau lễ Phục sinh. Trời bắt đầu dễ chịu. Những ngọn gió
nồm đầu mùa thổi qua Rancy, quạt luôn cả những bồ hóng nhà máy bám
trên các chấn song cửa sổ.
Bệnh của Bébert kéo dài nhiều tuần. Mỗi ngày tôi đến thăm hai lần.
Bà con khu phố chờ tôi ở trước gian lều, nhưng làm ra vẻ lơ lơ, những
người hàng xóm cũng vậy, họ đứng ngoài bậc cửa nhà họ quanh đấy. Như
thể một trò giải trí với họ. Họ muốn biết từ xa bệnh tình thằng bé xấu đi
hay tốt lên. Mặt trời xuyên qua quá nhiều thứ nên chỉ lọt được xuống
đường phố một chút ánh sáng bảng lảng như trời thu.
Về những lời khuyên về thằng bé Bébert thì tôi đã nhận được quá
nhiều. Quả là cả khu phố quan tâm đến nó. Người nói này người nói khác,
về khả năng điều trị của tôi... Khi tôi bước vào gian lều, một sự im lặng
căng thẳng và thù nghịch bao quanh, thậm tệ hơn cả là những lời nhiếc
móc. Gian lều này thường ngày đầy những mụ đàn bà lắm mồm, bạn bè
thân thiết với cô thằng bé, cho nên lúc nào cũng nồng nặc mùi váy trong và
mùi nước đái thỏ. Mỗi người bênh lấy một ông thầy mà mình thích, luôn
luôn được coi là mát tay hơn, giỏi giang hơn. Còn tôi thì chỉ có mỗi cái hơn
người, là gần như chữa bệnh không lấy tiền của ai, nhưng cái ấy lại làm cho
người ta áy náy, cả người bệnh lẫn thân nhân, dù nghèo thế nào thì cũng cứ
thấy có lỗi đối với ông thầy chữa thuốc cho không.
Bébert chưa đến nỗi mê man nhưng nó chẳng còn muốn đông đậy nữa.
Mỗi ngày nó sút cân đi một ít. Người nó chỉ còn ít thịt vàng vọt và run run
từ đầu xuống chân theo nhịp tim đập. Có thể nói tim nó đập dưới khắp làn