tiền để sinh sống, tất nhiên là kể cả tiền phải chu cấp cho bà cô của Aimée
để trông nom con bé.
Tôi thấy Robinson giờ đây ít lo lắng hơn lúc mới đến. Khí sắc khá hơn
và nặng thêm ba ký. Nói tổng quát, hình như gia đình nào có người hơi
điên điên, là họ rất mừng tìm đến chúng tôi, được thuận tiện vì gần kề ngay
thủ đô. Riêng khu vườn của viện cũng đáng được đến thăm rồi. Nhiều
người cất công từ Paris đến chỉ để ngắm những giỏ hoa và bồn hoa hồng
của chúng tôi vào những ngày hè đẹp trời.
Chính vào một ngày chủ nhật tháng sáu, lần đầu tiên tôi nhận ra hình
như có Madelon trong số người đi dạo chơi như thế; cô ta đứng im lặng
một lát ngay trước cổng.
Thoạt tiên tôi không muốn báo cho Robinson biết làm gì về sự xuất
hiện ấy, để hắn khỏi lo lắng. Nhưng suy nghĩ lại, mấy ngày sau, tôi dặn hắn
ít nhất là trong một thời gian chớ nên tha thẩn đi dạo ra xa các vùng xung
quanh như hắn vẫn thường làm lâu nay. Lời dặn dò ấy khiến hắn lo lo. Tuy
nhiên hắn cũng không gặng hỏi gì thêm.
Khoảng cuối tháng bẩy, chúng tôi nhận được mấy tấm bưu ảnh của
Baryton, lần này từ Phần Lan gửi về. Chúng tôi rất mừng, song không thấy
lão nói gì đến ngày về, chỉ một lần nữa chúc chúng tôi “may mắn” và nhiều
điều hữu ái khác.
Hai tháng trôi qua, rồi mấy tháng nữa... Đường sá mùa hè bụi lầm.
Khoảng lễ Các Thánh, một trong những bệnh nhân tinh thần của chúng tôi
gây chuyện ầm ĩ ngay trước cửa Viện. Thường ngày anh chàng này hiền
lành và đúng mực, bỗng bị kích động bởi không khí ngày lễ cầu nguyện
cho các tín đồ qua đời. Hắn đứng ở cửa sổ hét ầm lên rằng hắn không bao
giờ còn muốn chết nữa. Những người đi dạo ngoài phố để ý mãi không thôi
anh chàng kỳ cục buồn cười này. Đúng lúc xẩy ra chuyện om xòm ấy, tôi
lại có cảm giác rất khó chịu, mà lần này càng rõ ràng hơn lần trước, là nhận
ra Medelon ngay trên hàng đầu một đám người xúm quanh trước cổng, vẫn
chỗ cũ.
Đêm hôm đó, tôi thao thức không sao ngủ được vì lo âu. Cố quên đi
những gì mình thấy ban ngày mà không được. Thà rằng không ngủ nữa cho