2
M
ột khi đã đâm lao thì phải đâm cho trúng đích. Họ cho chúng tôi đi
ngựa, nhưng rồi chỉ được khoảng hai tháng, chúng tôi lại phải cuốc bộ. Có
lẽ vì tốn kém quá. Thế rồi, một buổi sáng, ông đại tá đi tìm con ngựa mà
cậu cần vụ có lẽ đã giấu nó vào chỗ khuất nào đó để tránh các làn đạn ác
hiểm ngoài đường cái. Trong khi chính ông đại tá và tôi lại đang bò ra tận
đó, tay tôi còn ôm theo cuốn sổ ghi mệnh lệnh của ông ta.
Từ trên mặt đường cái, chúng tôi thấy phía xa xa có hai chấm đen di
động; tuy cách nhau khá xa nhưng cũng đủ nhận ra hai thằng lính Đức đang
mải miết ngắm bắn ở giữa đường, có đến mười lăm phút đồng hồ.
Ông đại tá liệu có biết được hai thằng Đức ấy đang ngắm bắn vì
nguyên cớ gì, và tất nhiên hai đứa ấy đã biết được lý do; còn tôi thì, thú
thực là tôi chẳng biết gì cả. Lục lọi trong trí nhớ, từ trước đến giờ mình
chẳng làm điều gì có hại cho người Đức. Lúc nào cũng đối xử tử tế, nhã
nhặn với họ. Tôi hiểu biết họ ít nhiều, vì lúc còn bé đã theo học một trường
của họ ở ngoại thành Hanovre. Tôi nói được tiếng của họ. Tôi còn nhớ là
hồi đó, những thằng nhóc con có vẻ đần đần mà cứ luôn mồm la hét toáng
lên, hai con mắt thì nhờ nhờ và hay nhìn lén như mắt chó sói; cứ tan giờ
học là lại rủ nhau đi sờ soạng bọn con gái ở trong các khu rừng nhỏ quanh
đấy, nơi lũ học trò chúng tôi thường chơi trò bắn súng hay bắn nỏ mua vé
bốn đồng mác hẳn hoi. Rồi kéo nhau đi uống bia ngọt. Thuở ấy là thế, vậy
mà bây giờ chúng nó lại nhằm bắn chúng tôi ngay giữa đường giữa sá
chẳng thèm nói trước với nhau một lời, thì quả là đã có một khoảng cách,
thậm chí một vực thẳm ngăn cách nhau rồi. Lắm cái khác biệt quá chừng
rồi.
Chiến tranh, tóm lại, là tất cả những gì mà chẳng ai có thể hiểu được.
Không thể cứ tiếp tục như thế mãi.
Phải chăng những con người kia đã trải qua những cái gì đó khác
thường mà tôi chẳng nhận được ra chút nào? Mà mình cũng hà tất phải