đuổi chim hồng.” Huyền Lăng càng ngâm, hứng chí càng cao, ngâm xong
quay sang tôi, nói: “Lục đệ làm thơ càng lúc càng tinh diệu. Một bài ngũ
ngôn thôi mà như hiện ra cảnh Hoàn Hoàn nàng nhảy múa trước mắt.”
Hoàng đế đã nói như vậy, mọi người tự nhiên phụ họa khen hay. Chỉ mỗi
Nhữ Nam vương lộ vẻ khinh miệt trong ánh mắt, đặt mạnh chung rượu
trong tay xuống bàn, tỏ vẻ không đồng ý. Nhữ Nam vương phi vội kéo tay
áo y, có ý nhắc nhở y đừng làm mất hứng của mọi người.
Tôi vờ như không để ý, cúi đầu thưa: “Hôm nay được chứng kiến tài
năng của Lục vương gia, lại được vương gia khen ngợi, Hoàn Hoàn thật sự
vinh hạnh.”
Hoàng hậu gật đầu, mỉm cười phụ họa: “Hoàng thượng tuy không hay
làm thơ nhưng tài bình phẩm là hạng nhất. Hoàng thượng đã nói hay thì
nhất định là hay rồi.”
Huyền Lăng cười, nói: “Hoàn Hoàn có tài năng vượt trội cả hậu cung, vì
sao không làm luôn một bài thơ phụ họa nhỉ?”
Tôi tủm tỉm cười, vốn định tìm lý do thoái thác, ngẩng lên thấy Thanh
Hà vương chắp tay mỉm cười, từ từ uống một ngụm rượu rồi nhìn sang tôi,
nói: “Thần đệ nghe nói trong chốn khuê các vốn có nhiều người thiện tài
làm thơ, xưa có Trác Văn Quân, Ban Tiệp dư, gần đây có Mai Phi, Ngư
Huyền Cơ, thần đệ mong được nghe Uyển nghi chỉ dạy.”
Ngẫm nghĩ một lát, tôi cầm đôi đũa ngà voi gõ vào chung thủy tinh,
chậm rãi ngân nga: “Mồ hôi đẫm ướt, họa chẳng thành, tơ trúc khua vang
áo lụa tung. Hoa rơi lả tả như vô ảnh, tuyết ngoái phong, tựa hữu tình.”
Ngâm xong, mắt tôi lúng liếng nhìn sang Huyền Lăng rồi lập tức ung dung
mỉm cười, thưa: “Tần thiếp tài mỏng, bài thơ vụng về sao có thể lọt mắt
xanh của vương gia, chỉ đọc lên làm trò cười vậy thôi.”