đều tưởng mình thấy Dimitri. Nơi đây giống như một căn nhà gương, với
những hình phản chiểu biến dạng của anh ở khắp nơi.
Thậm chí cả ngôi nhà cũng khiến tôi run rẩy. Không có dấu hiệu rõ
ràng nào là Dimitri đã sống tại đây, nhưng tôi cứ nghĩ mãi, đây là nơi anh
lớn lên. Anh đã bước đi trên sàn nhà này, đã chạm vào những bức tường
này... Khi đi từ phòng này sang phòng khác, tôi cũng chạm vào những bức
tường ấy, cố lấy nguồn năng lượng của anh từ chúng. Tôi mường tượng anh
nằm dài trên ghế bành, về chơi hoặc được nghỉ hè. Tôi tự hỏi liệu anh có
trượt trên cái lan can hồi còn nhỏ không. Những hình ảnh đó thực đến nỗi
tôi luôn phải nhắc mình rằng anh đã không ở đây nhiều năm rồi.
“Cháu hồi phục rất nhanh,” Olena nhận xét vào buổi sáng sau hai ngày
tôi được đưa tới nơi. Bà nhìn tôi tán dương trong lúc tôi hít hà đĩa bánh
blini. Chúng là món bánh kếp cực mỏng phủ kín bơ và mứt. Cơ thể tôi luôn
cần một lượng thức ăn lớn để duy trì sức khỏe, và tôi nhận ra nếu không
nhai nhồm nhoàm, tôi chẳng có lí do gì phải xấu hổ vì ăn nhiều. “Ta tưởng
con đã chết lúc Abe và Sydney đưa con tới.”
“Ai cơ ạ?” tôi hỏi giữa hai miếng cắn.
Sydney đang ngồi bên bàn với những người còn lại trong gia đình, vẫn
như thường ngày, không động mấy tới đồ ăn. Cô rõ ràng không thoải mái
trong một gia đình ma cà rồng lai, nhưng lần đầu tiên tôi xuống nhà trong
buổi sáng nay, tôi nhận rõ sự nhẹ nhõm trong mắt cô.
“Abe Mazur,” Sydney đáp. Nếu tôi không nhầm thì một vài người
quanh bàn nhìn nhau đầy ẩn ý. “Ông ấy là Moroi. Tôi... tôi không biết cô bị
thương nặng tới mức nào, nên đã gọi ông ấy. Ông ấy đã đi cùng các giám
hộ tới căn nhà và đưa cô đến đây.”
Giám hộ. Nhiều giám hộ. “Ông ấy là hoàng thân à?” Mazur không
phải một cái tên thuộc hoàng tộc, nhưng cái họ không phải lúc nào cũng là
dấu hiệu nhận biết dòng dõi của ai đó. Giờ đây dù đã bắt đầu tin Sydney có
mạng lưới xã hội và quan hệ với những người quyền lực, tôi vẫn không thể
tin nổi lại có một hoàng thân đích thân tới giúp mình. Chắc ông ta mắc nợ
các nhà giả kim.