bàn chân, 234 người mất một chân hoặc bàn chân và những người
khác có thương tật nhẹ hơn.
Sự thành thạo với công việc tuỳ theo thời gian đào tạo được phân
bổ như sau: 43% cần không quá một ngày đào tạo; 36% cần từ một
ngày đến 1 tuần; 6% cần từ 1 đến 6 tuần; 14% cần từ 1 tháng
đến 1 năm; và 1% đòi hỏi 1 đến 6 năm với những công việc đòi hỏi
nhiều kỹ năng nhất.
Những quy tắc ở hầu hết các nhà máy đều vô cùng
cứng nhắc. Không có quy tắc nào dễ dãi, ngoài ra, không phải lúc
nào tính công bằng của chúng cũng được đảm bảo. Sự bất công
trong việc tuỳ tiện sa thải đã được giảm bớt nhờ việc hạn chế quyền
sa thải của những người tuyển dụng. Theo số liệu lưu giữ gần đây
nhất năm 1919 ghi nhận 10.155 vụ sa thải nhân viên; trong số đó có
10.334 trường hợp bị sa thải do đã vắng mặt hơn 10 ngày không có
lý do, 3.702 trường hợp bị buộc thôi việc vì từ chối công việc được
giao, hoặc mong muốn làm công việc khác, 39 trường hợp bị thôi
việc do không chịu đi học tiếng Anh, 108 người nhập ngũ và khoảng
3.000 người đã chuyển tới các nhà máy khác. Những người trở về
nhà, về nông trang hoặc chuyển sang kinh doanh chiếm một con
số tương tự. Ngoài ra, các số liệu còn ghi nhận 82 trường hợp phụ
nữ bị sa thải vì chồng họ có việc làm. Trong tất cả số người bị thôi
việc trên chỉ có 80 người là bị sa thải thẳng thừng bởi các nguyên
nhân sau: 56 người vi phạm vì bóp méo thông tin, 18 người có bằng
cấp giả và 4 người gây chuyện rắc rối.
Chúng ta luôn ưa thích những lao động biết nghe lời và làm theo
những gì được bảo. Các tổ chức hiện nay được chuyên môn hoá cao và
các bộ phận này phụ thuộc vào nhau nhiều đến mức chúng ta
không có thời gian cân nhắc đến việc cho phép con người làm việc
theo cách của họ. Nếu không có kỷ luật sắt, chúng ta sẽ làm việc
một cách lộn xộn. Tôi không cho rằng điều này là đúng trừ phi nó