việc cho đi trở nên không cần thiết nữa, chúng ta cần phải nhìn
sâu vào cuộc đời của mỗi cá nhân để hiểu rõ nguyên nhân dẫn tới
cảnh nghèo khổ của họ - tất nhiên là đồng thời, ta không ngại
ngần làm họ yên lòng trong lúc đó, và cũng không để mặc họ sau khi
đã giúp đỡ họ tạm thời. Điều khó khăn ở đây có lẽ là làm thế nào để
hiểu rõ được những nguyên nhân gây ra sự khốn cùng của họ.
Nhiều người có thể động lòng giúp đỡ một gia đình nghèo khó hơn
là động lòng tới mức dồn tâm trí vào việc giúp gia đình đó thoát khỏi
đói nghèo.
Tôi không có được sự kiên nhẫn đối với các hội từ thiện chuyên
nghiệp hay với bất cứ loại hình chủ nghĩa nhân đạo thương mại hóa
nào. Khi sự giúp đỡ của con người được hệ thống hóa, được tổ chức,
thương mại hóa và chuyên nghiệp hóa thì những tình cảm sâu sắc ẩn
chứa trong sự giúp đỡ đó bị mai một đi và trở thành một thứ tình cảm
lạnh lùng, thờ ơ.
Sự giúp đỡ thực sự của con người không bao giờ có thể phân loại
hay quảng cáo. Trong thực tế, có nhiều trẻ em mồ côi được chăm
sóc trong gia đình những người yêu thương chúng hơn là ở các tổ
chức từ thiện. Có nhiều người già đến nương tựa bạn bè của họ hơn
là tại các viện dưỡng lão. Có nhiều khoản viện trợ dưới dạng các
khoản tiền mà các gia đình tự cho nhau vay hơn là thông qua các tổ
chức tín dụng. Cứ như vậy, xã hội loài người tự trông nom lẫn nhau
dựa trên cơ sở lòng nhân đạo. Và chính vì thế, một câu hỏi hết sức
quan trọng là liệu việc thương mại hóa bản chất tự nhiên của lòng từ
thiện còn có thể bị khuyến khích đến mức nào nữa đây?.
Những hội từ thiện chuyên nghiệp không chỉ có thái độ lạnh lùng
mà họ còn gây nên nhiều vết thương lòng hơn là giúp đỡ người
khác. Các hội từ thiện hạ thấp giá trị của những người nhận viện trợ
và ăn mòn lòng tự trọng nơi họ. Điều đó cũng gần giống như chủ
nghĩa duy tâm ủy mị. Vẫn còn cách đây chưa lâu, ở nước ngoài đã