nhất là các qui định về thương mại. Các tiểu bang miền Nam, nơi xuất khẩu
các sản phẩm thô, gạo, thuốc nhuộm và thuốc lá, lo sợ Quốc hội do các tiểu
bang vùng New England (các bang miền Bắc) chiếm đa số có thể thông qua
thuế xuất khẩu và sẽ phá hỏng nền kinh tế của họ. Ðại biểu C.C.Pinckney
tuyên bố rằng nếu Quốc hội có quyền lực áp đặt các qui định này, thì các
tiểu bang miền Nam sẽ chẳng làm được gì, ngoài việc đứng nhìn các bang
miền Bắc.
Ngày 21 tháng Tám, cuộc tranh cãi về thương mại đã dẫn đến một vấn đề
nóng bỏng khác: nô lệ. Khi đại biểu Luther Martin của tiểu bang Maryland
đề xuất một biểu thuế đối với việc nhập khẩu nô lệ, ngay lập tức, Hội nghị
rơi vào một cuộc tranh cãi rất căng thẳng về thể chế nô lệ, về tính đạo đức
của vấn đề này và về mối quan hệ kinh tế đối với chính phủ mới. Ðại biểu
John Rutledge của tiểu bang Nam Carolina cho rằng tình trạng nô lệ chẳng
liên quan gì đến đạo đức, và tuyên bố "Chỉ riêng lợi ích mới là nguyên tắc
điều hành các tiểu bang". Ðại biểu Sherman của tiểu bang Connecticut ủng
hộ việc từ bỏ vấn đề nhạy cảm này trước khi nó gây nguy hiểm cho Hội
nghị. Ðại biểu George Mason của tiểu bang Virginia thể hiện mối lo ngại
đối với việc nhập khẩu không hạn chế nô lệ, nhưng sau đó đã nói rằng ông
cũng ủng hộ việc liên bang bảo vệ quyền sở hữu đối với các nô lệ đã có
hiện nay.
Cái vấn đề lằng nhằng về khả năng can thiệp của liên bang trong việc buôn
bán nô lệ mà Sherman và các đại biểu khác lo sợ sẽ gây chia rẽ mãi mãi
giữa các đại biểu của các bang miền Nam với các bang miền Bắc đã được
thu xếp ổn thỏa trong "một sự mặc cả", như câu ví von của Mason. Ðể đổi
lấy sự ủng hộ của các bang vùng New England cho việc tiếp tục nhập khẩu
nô lệ trong vòng 20 năm, các bang miền Nam đã chấp nhận một điều khoản
qui định rằng để phê chuẩn các dự luật về thương mại và hàng hải chỉ cần
sự chấp thuận của đa số quá bán các phiếu tại Nghị viện. Ðó là thuận lợi lớn
đối với các bang miền Bắc bởi các đạo luật liên quan đến hàng hải và
thương mại, những thế mạnh của miền Bắc, sẽ khó lòng được phê chuẩn