Về số học có các phép tính: cộng, trừ, nhân, chia được dùng bàn tính hoặc
thẻ (trù toán). Các phép chia bình phân (chia đều), sai phân (chia tỉ lệ) khá
phức tạp, có cả tạp số, ví dụ 1 mẫu = 10 sào, 1 sào = 15 thước. Ngoài ra còn
dùng đến phép khai phương (lấy căn bậc hai). Thí sinh thường sử dụng cuốn
cửu chương lập thành tính pháp của ông Nguyễn Hữu Chung, trước thời
Vĩnh Thịnh (1705 -1719) để ôn luyện, có khi học thuộc lòng.
Về hình học, chương trình gồm: tính diện tích các hình tự phương điền
(hình vuông), trực điền (hình chữ nhật), thê điền (hình thang), khuê điền
(thang cân), tà điền (tam giác thường), viên điền (hình tròn), thuần điền (hai
cung úp vào nhau), hình bầu dục (elip), mi điền (hình cong như lông mày),
cổ điền (hình trống).
Có một vấn đề chưa rõ là ngày xưa người ta tính diện tích các hình nói
trên theo công thức nào, độ chính xác đến đâu? Đã biết dùng số Pi chưa và
độ chính xác đến mức nào. Rất tiếc là người ta đã không lưu lại một đề thi
hình học nào để tham khảo.