đến trường ngay từ hôm nay) và chỉ thấy được lợi ích khi con cái trưởng
thành.
Vì tất cả những lý do này, trên lý thuyết, thu nhập sẽ ảnh hưởng tới quyết
định liên quan đến việc học: Jamal không được học hành đầy đủ bằng John
vì cha mẹ của em nghèo hơn, cho dù thu nhập tăng thêm nhờ có học hành
đầy đủ là như nhau. Trong thực tế, từ bộ dữ liệu 18 quốc gia, chúng tôi phát
hiện thấy tỉ lệ chi tiêu cho việc học tăng từ nhóm người sống dưới 99 xu một
ngày tới nhóm sống với 6-10 đô la Mỹ một ngày. Gia đình sinh ít con hơn
hẳn khi thu nhập tăng, dẫn đến chi phí học hành cho mỗi đứa con sẽ tăng
nhanh hơn so với tổng tiêu dùng. Điều này trái với những gì chúng tôi hy
vọng vào thế giới hôm nay, nơi mà giáo dục nên là một dạng đầu tư, và
người nghèo nên được nhìn nhận hoàn toàn có đủ tư chất học tập, trừ khi ta
tin rằng có cho người nghèo đi học cũng như không. Điều này quan trọng,
bởi nếu thu nhập của cha mẹ đóng vai trò quyết định như vậy đối với đầu tư
cho giáo dục, thì trẻ con nhà giàu sẽ được học hành đầy đủ hơn dù có thể
không thực sự tài năng, còn trẻ con nhà nghèo dù có tài đi nữa nhưng vẫn có
nguy cơ bị tước quyền được học tập. Do đó nếu cứ phó mặc cho thị trường
thì trẻ em sẽ không được học hành theo đúng năng lực của mình bất kể hoàn
cảnh lớn lên ra sao. Nếu không thể hoàn toàn xóa bỏ khoảng cách thu nhập
thì chính phủ cần can thiệp vào phía cầu để giảm chi phí giáo dục, hướng tới
mục tiêu hiệu quả về mặt xã hội là đảm bảo mọi trẻ em đều có cơ hội học
tập.
Chính sách giáo dục kiểu từ trên xuống có tác dụng không? Câu hỏi đặt ra là
những biện pháp can thiệp của chính phủ nghe có vẻ hữu dụng nhưng trong
thực tế liệu có khả thi hay không. Nếu cha mẹ không quan tâm tới vấn đề
giáo dục, chẳng phải phát triển giáo dục theo kiểu từ trên xuống sẽ có nguy
cơ gây lãng phí nguồn lực hay sao? Trong The Elusive Quest for Growth,
Easterly cho rằng đầu tư giáo dục ở các nước châu Phi không đem lại lợi ích
gì cho tăng trưởng kinh tế.