giảm tỉ lệ mắc bệnh xuống còn một nửa.
Vậy thì đâu là cách tốt nhất đảm
bảo trẻ em có mùng để ngủ?
Với khoảng 10 đô la Mỹ, mỗi hộ gia đình sẽ nhận một cái mùng chống côn
trùng giao đến tận nhà và được hướng dẫn cách sử dụng. Chính phủ và các
tổ chức phi chính phủ nên cung cấp mùng miễn phí cho các bậc cha mẹ, hay
nên yêu cầu những người này tự mua ở mức giá trợ cấp? Hay nên để họ mua
với mức giá thị trường? Đây là những câu hỏi cần lời giải đáp, nhưng câu trả
lời thì không hề rõ ràng chút nào. Nhiều “chuyên gia” quyết liệt bày tỏ quan
điểm về vấn đề này ngay cả khi không đưa ra được bằng chứng nào.
Do sốt rét là bệnh truyền nhiễm, nên nếu em A ngủ mùng, thì em B sẽ ít
nguy cơ bị lây hơn, và nếu ít nhất một nửa dân số sử dụng mùng ngủ, thì
nguy cơ mắc sốt rét sẽ giảm nhiều cho cả những người không ngủ mùng.
Vấn đề là chưa đến 1/4 trẻ em có nguy cơ mắc sốt rét được sử dụng mùng
ngủ
. Có lẽ 10 đô la là số tiền quá lớn với nhiều gia đình ở Mali hay
Kenya. Nếu xét đến lợi ích cho người sử dụng mùng và những người xung
quanh, thì giảm giá bán hay thậm chí cung cấp mùng ngủ miễn phí đều là ý
kiến hay. Thực ra, phân phát mùng ngủ miễn phí là một trong những hoạt
động được Peter Sachs ủng hộ. Easterly và Mojo phản đối với lý do người ta
sẽ không đánh giá cao (do đó sẽ không sử dụng) mùng ngủ nếu được cung
cấp miễn phí. Và dù họ có trân trọng việc làm đó thì có thể họ sẽ ỷ lại và
không mua khi mùng ngủ không được miễn phí nữa, hoặc sẽ từ chối mua
những vật dụng cần thiết khi không được trợ cấp nữa. Điều này sẽ phá hỏng
những thị trường đang vận hành hiệu quả. Moyo từng bàn về chuyện nhà sản
xuất mùng ngủ bị tổn thất ra sao bởi chương trình phân phát mùng miễn phí.
Đến khi chương trình phân phát miễn phí chấm dứt, thì có khi chẳng còn ai
sản xuất và bán mùng nữa.
Để làm sáng tỏ tranh luận nói trên, trước hết ta cần trả lời ba câu hỏi. Thứ
nhất, nếu người dân phải trả đúng giá (hay chỉ được giảm giá ít) khi mua
mùng chống côn trùng, thì họ có thà là ngủ không mùng hay không? Thứ
hai, nếu phát không hoặc bán mùng với giá ưu đãi nhiều, thì người dân có sử