bình là 0,93. Đặt con số này trong tương quan so sánh, Trung Quốc giành
được 386 huy chương trong 8 kỳ thế vận hội, với trung bình 48,3 huy
chương mỗi kỳ Olympics. Có đến 79 quốc gia có con số trung bình này cao
hơn Ấn Độ, trong khi dân số của Ấn Độ nhiều gấp 10 lần dân số của 73
trong số 79 quốc gia đó.
Dĩ nhiên Ấn Độ nghèo, nhưng không nghèo như trước đây, và cũng không
nghèo như Cameroon, Ethiopia, Ghana, Haiti, Kenya, Mozambique, Nigeria,
Tanzania và Uganda, những quốc gia có số huy chương nhiều gấp 10 lần so
với Ấn Độ. Thực tế là không có quốc gia nào có số huy chương mỗi kỳ Thế
vận hội thấp hơn Ấn Độ mà diện tích chỉ bằng 1/10 kích thước của quốc gia
này, ngoại trừ hai trường hợp đáng chú ý là Pakistan và Bangladesh. Đặc
biệt Bangladesh là quốc gia duy nhất có hơn 100 triệu người mà chưa từng
giành được huy chương Olympics. Nepal cũng là quốc gia có dân số lớn
nhưng chưa từng đoạt huy chương.
Rõ ràng là có một mô tuýp chung. Người Nam Á bị cho là mê môn crikê đến
phát cuồng - môn thể thao anh em của bóng chày thường làm người Mỹ
nhầm lẫn - nhưng nếu crikê thu hút tất cả tài năng thể thao của 1/4 dân số
thế giới, thì kết quả chẳng mấy ấn tượng. Người Nam Á chưa từng vượt trội
về crikê như Australia, Anh, hay thậm chí là Liên bang Tây Ấn bé nhỏ trong
những ngày hoàng kim của mình, mặc dù họ rất trung thành với môn thể
thao này và có nhiều lợi thế vượt trội - ví dụ, Bangladesh có diện tích lớn
hơn Anh, Nam Phi, Australia, New Zealand, và Tây Ấn cộng lại. Xét đến
tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em đặc biệt nổi bật ở khu vực Nam Á, dường
như hai sự kiện này - suy dinh dưỡng thể gầy còm ở trẻ em và thất bại ở
Olympics - có liên quan với nhau.
Thế vận hội Olympics không phải là chỗ duy nhất chiều cao thể hiện vai trò.
Ở nước giàu cũng như nước nghèo, những người cao hơn kiếm được nhiều
tiền hơn. Đã có nhiều cuộc tranh luận liệu chiều cao có thực sự ảnh hưởng
đến năng suất lao động - chẳng hạn, sự phân biệt đối xử với những người
thấp hơn. Một báo cáo khoa học gần đây của Anne Case và Chris Paxson đã